Các Thánh

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Chuyển từ Trần Kim Thục

Vào đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng cũng bắt đầu lan rộng. Giáo hội Việt Nam được khai sinh từ đấy. Tuy nhiên, như bầu trời có những ngày mây đen giăng mắc, Giáo hội Việt Nam cũng có những ngày tăm tối. Giáo hội Mẹ Roma đã trải qua 3 thế kỷ bị bách hại, trước khi được mở rộng như ngày nay, thì Giáo hội Việt Nam cũng phải trải qua gần 3 thế kỷ chìm ngập trong thử thách. suốt từ năm 1630 – 1883, bao giòng máu đã đổ ra để bảo vệ đức tin và để làm phát sinh Giáo hội này, trong những cuộc bắt bớ đời các chúa: Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, các vua : Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.

Hàng vàn chứng nhân đã hiên ngang hiến mạng sống để bảo vệ đức tin. Gương hy sinh quả cảm của các Ngài thật sáng ngời và Giáo hội qua 3 đời giáo hoàng: Lêô VIII, Piô X và Piô VII, đã tôn phong 117 vị lên hàng chân phước. Tất cả đã được Đức Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng hiển thánh ngày 19-6-1988.

Tuy nhiên “máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo”. Gương các thánh tử đạo không chỉ là niềm hãnh diện của chúng ta, mà còn là công ơn mà chúng ta, các tín hữu Việt Nam, phải ghi nhớ và đáp đền. Mừng kính trong một ngày lễ, chúng ta khơi dậy cuộc đời các vị tử đạo, nhất là các vị đã được tôn phong lên bàn thánh để kính nhớ. Chúng ta ghi nhớ ngày các Ngài hiến thân vì đức tin :

8 VỊ THÁNH GIÁM MỤC :
1. Thánh An (Giuse Diaz Sanjurjô) tử đạo ngày 20.7. 1857
2. Thánh Cao (Phêrô Dumoulin Borie) tử đạo ngày 24. 11.1838
3. Thánh Liêm (Hiêrônimô Hermozilla) tử đạo ngày 1.11.1861
4. Thánh Minh (Đaminh Henares) tử đạo ngày 26.6.1838
5. Thánh Thể (Stêphanô Theođônô Cuénot) tử đạo ngày 14.11.1861
6. Thánh Vinh (Valentinô Berriô Ochoa) tử đạo ngày 1.11.1861
7. Thánh Xuyên (Giuse Melchior Garcia Sampedro) tử đạo ngày 28.7.1858
8. Thánh Y (Ignatiô Delgađô Hy Cebrian) tử đạo ngày 21.7.1838.

50 VỊ THÁNH LINH MỤC :
1. Thánh Bắc (Phêrô Phanxicô Néron) tử đạo ngày 3.11.1860
2. Thánh Bình (Phêrô Almatô) tử đạo ngày 1.11.1861
3. Thánh Cẩm (Đaminh Cẩm) tử đạo ngày 11.3.1859
4. Thánh Dụ (Giuse Marchand) tử đạo ngày 30.11.1835
5. Thánh Dụ (Tôma Đinh viết Dụ) tử đạo ngày 26.11.1839
6. Thánh Duệ (Bênađô Võ Văn Duệ) tử đạo ngày 01.8.1838
7. Thánh Dũng (Anrê Trần An Dũng – Lạc) tử đạo ngày 21.12.1839
8. Thánh Đạt (Gioan Đạt) tử đạo ngày 28.10.1798
9. Thánh Đậu (Matthêu Leziniana) tử đạo ngày 21.01.1745
10. Thánh Điểm (Vinh Sơn Nguyễn thế Điểm) tử đạo ngày 24.11.1838
11. Thánh Đông (Augustinô Schoeffler) tử đạo ngày 01.5.1851
12. Thánh Gia (Hyaxintha Castañeda) tử đạo ngày 7.11.1773
13. Thánh Hạnh (Đaminh Nguyễn Văn Hạnh) tử đạo ngày 01.8.1838
14. Thánh Hiền (Giuse Fernandez) tử đạo ngày 24.7.1838
15. Thánh Hiển (Giuse Hiển) tử đạo ngày 9.5.18400
16. Thánh Hoan (Gioan Đoàn Trinh Hoan) tử đạo ngày 26.5.1861
17. Thánh Hương (Augustinô Aloisiô Bonnard) tử đạo ngày 01.5.1852
18. Thánh Hương (Laurensô Hương) tử đạo ngày 13.02.1856
19. Thánh Kính (Phanxicô Isiđôrê Gazelin) tử đạo ngày 17.10.1833
20. Thánh Khanh (Phêrô Khanh) tử đạo ngày 12.7.1842
21. Thánh Khoa (Phêrô Võ Đăng Khoa) tử đạo ngày 24.11.1838
22. Thánh Khoan (Phêrô Phạm Khắc Khoan) tử đạo ngày 28.4.1840
23. Thánh Khuông (Tôma Khuông) tử đạo ngày 30.01.1860
24. Thánh Liêm (Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm) tử đạo ngày 07.11.1773
25. Thánh Loan (Luca Vũ Bá Loan) tử đạo ngày 05.6.1840
26. Thánh Lộc (Phêrô Lê Văn Lộc) tử đạo ngày 13.02.1859
27. Thánh Lựu (Phêrô Lựu) tử đạo ngày 07.4.1861
28. Thánh Mậu (Đaminh Mậu) tử đạo ngày 05.11.1858
29. Thánh Minh (Philipphe Phan Văn Minh) tử đạo ngày 03.7.1853
30. Thánh Năm (Giacôbê Nguyễn Mai Năm) tử đạo ngày 12.3.1838
31. Thánh Ngân (Phaolô Nguyễn Ngân) 08.11.1840
32. Thánh Nghi (Giuse Nguyễn Đình Nghi) tử đạo ngày 08.11.1840
33. Thánh Phan (Phanxicô Jaccard) tử đạo ngày 21.9.1838
34. Thánh Quí (Phêrô Đoàn Công Quý) tử đạo ngày 31.7.1859
35. Thánh Tân (Gioan Charles Cormay) tử đạo ngày 20.9.1837
36. Thánh Tế (Phanxicô Gil de Federich) tử đạo ngày 22.01.1745
37. Thánh Tịnh (Phaolô Lê Bảo Tịnh) tử đạo ngày 06.4.1857
38. Thánh Tuân (Giuse Tuân) tử đạo ngày 30.4.1861
39. Thánh Tuần (Phêrô Nguyễn Bá Tuần) tử đạo ngày 15.7.1838
40. Thánh Tùy (Phêrô Lê Tùy) tử đạo ngày 11.10.1838
41. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Văn Tự) tử đạo ngày 05.9.1838
42. Thánh Tước (Đaminh Tước) tử đạo ngày 02.4.1839
43. Thánh Trạch (Đaminh Trạch hay Đoài) tử đạo ngày 18.9.1840
44. Thánh Triệu (Emanuel Nguyễn Văn Triệu) tử đạo ngày 17.9.1798
45. Thánh Thi (Phêrô Trương Văn Thi) tử đạo ngày 21.12.1839
46. Thánh Thịnh (Martinô Tạ Đức Thịnh) tử đạo ngày 08.11.1840
47. Thánh Ven (Thêophan Vénard) tử đạo ngày 02.02.1861
48. Thánh Giuse Đặng Đình Viên tử đạo ngày 21.8.1838
49. Thánh Xuyên (Đaminh Nguyễn Văn Xuyên) 26.11.1839
50. Thánh Yến (Vinh Sơn Đỗ Yến) tử đạo ngày 30.6.1838

14 THÁNH THÀY GIẢNG
1. Thánh Cần (Phanxicô Xavie Cần) tử đạo ngày 20.11.1837
2. Thánh Chiểu (Phanxicô Đỗ Văn Chiểu) tử đạo ngày 26.6.1838
3. Thánh Đường (Phêrô Trương Văn Đường) tử đạo ngày 20.11.1837
4. Thánh Hiếu (Pherô Nguyễn Văn Hiếu) tử đạo ngày tử đạo ngày 28.4.1840
5. Thánh Khang (Giuse Nguyễn Duy Khang) tử đạo ngày 01.11.1861
6. Thánh Mậu (Phanxicô Xavie Hoàng Trọng Mậu) tử đạo ngày 19.12.1839
7. Thánh Mỹ (Phaolô Nguyễn Văn Mỹ) tử đạo ngày 18.12.1838
8. Thánh Toán (Tôma Toán) tử đạo ngày 27.6.1840
9. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Khắc Tự) tử đạo ngày 10.7.1840
10. Thánh Truật (Phêrô NguyễnVăn Truật) tử đạo ngày 18.10.1838
11. Thánh Thanh (Gioam B. Đinh Văn Thanh ) tử đạo ngày 28.4.1840
12. Thánh Úy (Đaminh Bùi Văn Úy) tử đạo ngày 19.10.1839
13. Thánh Uyển (Giuse Nguyễn Đình Uyển) tử đạo ngày 4.7.1838
14. Thánh Vân (Phêrô Đoàn Văn Vân) tử đạo ngày 25.5.1857

1 THÁNH CHỦNG SINH
Thánh Thiện (Tôma Trần Văn Thiện) tử đạo ngày 21.9.1838

44. THÁNH GIÁO DÂN
1. Thánh Đaminh Án Khảm, lý trưởng, tử đạo ngày 13.01.1859
2. Thánh Phaolô Tống Viết Bường, quan thị vệ, tử đạo ngày 23.10.1888
3. Thánh Giuse Hoàng Vương Cảnh, y sĩ, trùm họ. tử đạo ngày 05.9.1838
4. Thánh J.B. Cỏn, Lý Trưởng, tử đạo ngày 08.11.1840
5. Thánh Phêrô Dũng, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
6. Thánh Vinh Sơn Dương. Nông dân, tử đạo ngày 06.6.1862
7. Thánh Phêrô Đa, tử đạo ngày 17.6.1862
8. Thánh Đaminh Đinh Đạt, quân nhân, tử đạo ngày 18.7.1839
9. Thánh Tôma Nguyễn văn Đệ, thợ may, tử đạo ngày 19.12.1839
10. Thánh Antôn Nguyễn Đích, trùm họ, tử đạo ngày 12.8.1838
11. Thánh Phaolô Đổng, tử đạo ngày 03.6.1862
12. Matthêu Lê Văn Cẩm, thương gia 11.5.1847
13. Thánh Phaolô Hạnh, tử đạo ngày 28.5.1859
14 . Thánh Simon Phạm Đắc Hòa, y sĩ , tử đạo ngày 12.12.1840
15. Thánh Augustinô Phan Viết Huy, quân nhân, tử đạo ngày 12.6.1839
16 . Thánh Đaminh Huyện, ngư phủ , tử đạo ngày 05.6.1842
17. Thánh Micae Hồ Đình Huy, quan thái bộc, tử đạo ngày 22.5.1857
18. Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu, tử đạo ngày 02.5.1854
19. Thánh Đaminh Mạo, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
20. Thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới, nông dân , tử đạo ngày 19.12.1839
21. Thánh Micae Nguyẽn Huy Mỹ, lý trưởng, tử đạo ngày 12.8.1838
22. Thánh Laurensô Ngôn, tử đạo ngày 22.5.1862
23. Thánh Đaminh Nguyên, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
24. Thánh Đaminh Nhi, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
25. Thánh Đaminh Ninh, nông dân, tử đạo ngày 02.6.1862
26. Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, trùm họ, tử đạo ngày 31.7.1859
27. Thánh Mathêô Nguyyễn Văn Phương, trùm ho, tử đạo ngày 26.5.1861
28. Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh trùm họ, tử đạo ngày 10.7.1840
29. Thánh Giuse Tả, tử đạo ngày 13.10.1859
30. Thánh Đaminh Toại, ngư phủ, tử đạo ngày 05.6.1862
31. Thánh Giuse Tuân, tử đạo ngày 07.01.1862
32. Thánh Giuse Túc, tử đạo ngày 01.6.1862
33. Thánh Anrê Tường. Nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
34. Thánh Vinh Sơn Tương, nông dân , tử đạo ngày 16.6.1862
35. Thánh Andrê Trần văn Trông, quân nhân, tử đạo ngày 28.11.1835
36. Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, cai đội, tử đạo ngày 06.10.1858
37. Thánh Anê Lê Thị Thành (bà Đê ) tử đạo ngày 12.7.1841
38. Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, quan nhân, tử đạo ngày 13.6.1839
39. Thánh Giuse Lê Đăng Thị, cai đội, tử đạo ngày 24.10.1860
40. Thánh Luca Thìn, tử đạo ngày 13.01.1859
41. Thánh Thông (Anrê Nguyễn Kim Thông hay Năm Thuông) tử đạo 15.7.1855
42. Thánh Martinô Thọ, thuế, lý trưởng , tử đạo ngày 08.11.1840
43. Thánh Phêrô Thuần, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
44. Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, nông dân, tử đạo ngày 19.12.1839

 

SIMON PHAN ĐẮC HÒA (1774-1840)

 Y SỸ TỬ ĐẠO

Trần Mỹ Duyệt

Simon Phan Ðắc Hòa, Sinh năm 1774 tại Mai Vĩnh, Thừa Thiên, bị xử trảm ngày 12/12/1840 tại An Hòa dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn lên bậc Chân Phước ngày 27-5-1900. Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh ngày 19-06-1988.  Lễ kính vào ngày 12/12.

Sinh ra trong một gia đình Nho giáo, thân phụ là Công thần Lại Bộ Thượng Thư Phan Đắc Thục (ngày nay chức quan Thượng Thư có thể được coi tương đương với chức Bộ trưởng), thân mẫu là Đóa. Ngài mồ côi cha năm 12 tuổi. Cuộc sống gia đình bắt đầu có những thay đổi, mẹ ngài đưa hai chị em tới làng Nhu Lý sinh sống. Tại đây mẹ con ngài    được ông Tảo một người công giáo tốt bụng giúp đỡ. Ít lâu sau, bà và các con đã trở lại đạo.

Ngay từ những ngày đầu trở lại đạo, ông Tảo đã cho ngài vào nhà Đức Chúa Trời ở với cha Nhân mấy năm rồi vào học Chủng viện An Ninh. Thầy Hòa học trong Chủng Viện hơn mười năm nhưng không được chọn lên chức Linh mục theo quan niệm tôn giáo khắt khe thời đó, lý do vì hoàn cảnh gia đình, mẹ ngài là vợ lẽ. Năm 30 tuổi, thầy Hòa trở về gia đình sống đời giáo dân. Thầy đã đến ở với một đông y là ông lang Phương để vừa giúp việc, vừa học nghề thuốc. Một thời gian giúp việc tại đây, thầy Hòa đã được gia đình ông Phương gả con gái tên là Yêm, một thiếu nữ 18 tuổi.

Ông bà đã sinh ra 12 người con trong đó có ba cô con gái đã dâng mình vào dòng Mến Thánh Giá. Vợ chồng ông bà Hòa tiếp nối nghề thuốc truyền thống của gia đình. Người dân trong làng kính trọng gọi ông là thầy Hòa hay ông lang Hòa.

Ngoài đời sống gia đình và nghề nghiệp, ông còn tham gia những công tác tông đồ trong giáo xứ như thủ chỉ làng Nhu Lý, trùm họ đạo và chánh trương hàng xứ. Ông là người rộng tay giúp đỡ vật chất và tinh thần cho giáo dân trong làng, cách đặc biệt với Cộng đoàn Dòng Mến Thánh Giá Nhu Lý mới thành lập đầu thế kỷ XIX (1805).

Tình hình tôn giáo trở nên khó khăn vào những năm 1830-1840 dưới thời vua Minh Mệnh. Nhà vua bách hại người Công giáo không thương xót, chính tay vua đã ký gần 150 bản án tử đạo. Trong số 117 thánh tử đạo tại Việt Nam có tới 58 vị chịu chết dưới triều của Minh Mệnh.

Coi nghề Y sĩ “Lương Y như từ mẫu”. Ông đã ra tay chữa trị cho nhiều người. Danh tiếng ông được loan truyền rộng rãi, nhờ vậy ông có nhiều cơ hội giúp đỡ những người nghèo khó và già yếu..

Khi vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo, ông âm thầm làm nhà riêng, tường có hai lớp để cho các linh mục ẩn trốn. Linh mục thừa sai De la Motte từ khi về Nhu Lý thường xuyên trú ẩn tại nhà ông. Ông cũng thường xuyên cho người thăm nuôi cha Jaccard khi bị giam trong tù và tới khi bị trảm quyết thì ông xin đem xác cha Jaccard về an táng tại Nhu Lý.

Thế rồi một hôm vào tối ngày 13 tháng 4 năm 1840, trong khi ông dùng thuyền của một giáo dân An Ninh đưa Đức Cha De la Motte Y đến trốn tại làng Hoà Ninh. Vì có người ngoại giáo theo dõi biết và đi báo cáo với quan huyện Dương Xuân nên thuyền vừa cập bến Hoà Ninh thì bị phát giác.

Quan ra lệnh bắt Đức Cha De la Motte Y và thầy lương y Hoà giải về huyện Dương Xuân. Sau đó giải về Quảng Trị giam 2 tháng, cuối cùng chuyển về giam tại kinh đô Huế. Trong thời gian 08 tháng bị giam giữ ở Huế, thầy phải chịu tra tấn trên 20 lần. Tuy nhiên, ngài vẫn tận tình giúp đỡ anh em bạn tù bằng cách bốc thuốc chữa trị các thứ bệnh. Ngài còn khuyên bảo, khích lệ anh em đồng đạo trung thành với Chúa và kiên trì giữ vững đức tin trước những hình khổ, tra tấn. Có lần các con đến thăm, ngài đã khuyên bảo:

– Cha luôn yêu thương và chăm sóc các con. Nhưng Cha phải yêu mến Chúa nhiều hơn. Các con hãy vui lòng theo ý Chúa, đừng buồn. Các con ở với mẹ, yêu thương nhau và chăm sóc việc nhà. Từ đây cha không thể lo gì cho các con được nữa, nhưng mọi sự cha phó dâng cho Chúa. Chúa sẽ lo cho mẹ và các con. Cha vui lòng chịu mọi hình khổ vì yêu mến Chúa. Cha xin vâng trọn thánh ý Chúa định.

Lần khác, có một người học trò cũ tới thăm, ngài ân cần khuyên nhủ người học trò cũ:

– Con đến thăm Thầy lần này là đủ, đừng đến nữa kẻo lính biết, họ sẽ bắt. Các con không chịu được các hình khổ ghê sợ này đâu. Sáng tối con hãy nhớ đọc kinh xin Chúa cho Thầy được trung thành với Chúa, được chịu chết vì Đạo. Khi đầu Thầy rơi xuống rồi thì các con hãy tới an ủi bà và các con cháu của Thầy. Thầy coi các trò như con của Thầy. Khi lên trời, thầy sẽ phù hộ cho các con còn ở trần gian này.

Sau thời gian chờ đợi, năm 1840 vua Minh Mạng châu phê án xử trảm quyết, bêu đầu 3 ngày. Tại pháp trường, nơi xử án là Cổng Chém, gần chợ An Hoà, đội lý hình trói hai tay ngài. Quan Giám sát tuyên đọc lại bản án viết trên thẻ gỗ và ra lệnh sau tiếng trống thứ 3 thì chém đầu. Nhưng khi chiêng trống vừa nổi lên 3 hồi 9 tiếng thì vừa tới tiếng chiêng trống thứ nhất, lý hình đã vội chém đầu Thầy gần rơi khỏi cổ. Lý hình lấy gươm cắt đứt đầu khỏi cổ rồi tung lên cao cho mọi người xem thấy. Khi các quan và lính rút lui, còn lại một đội lính canh cái đầu. Theo lệnh, thủ cấp của ngài được treo 3 ngày tại làng Đức Sơ   cho mọi người chứng kiến. Gia đình ngài và giáo dân Nhu Lý lấy vải cuốn xác ngài, chờ đợi sau 3 ngày xin luôn thủ cấp rồi rước về an táng ở làng Nhu Lý. Hôm đó là ngày 10 tháng 12 năm 1840.

“Trong nhà cha Thầy có nhiều chỗ”. (Gioan 14:2) Chúa Giêsu đã phán những lời này ám chỉ các ơn gọi khác nhau. Thánh Phan Đắc Hòa ước ao được làm linh mục, nhưng Chúa lại gọi ngài làm y sỹ. Và trong cuộc sống này, ngài đã thể hiện trọn vẹn lòng yêu mến đối với Chúa qua việc hoàn tất cuộc sống của một lương y tốt lành theo gương Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu không những là một lương y đã chữa lành nhiều bệnh tật, Ngài còn là linh dược thiêng liêng chữa trị, tăng thêm sức mạnh và bồi bổ các linh hồn. Hình ảnh này chúng ta tìm thấy qua Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải. Các linh hồn tật nguyền, yếu đuối và sa ngã đã tìm được sự tha thứ, chữa lành và nuôi dưỡng bằng của ăn tinh thần là Mình Máu Thánh Ngài.

Thánh Simon Phan Đắc Hòa đã dâng hiến mạng sống mình vì tình yêu Thiên Chúa. Máu ngài đổ ra, hòa cùng mồ hôi, nước mắt qua những tháng năm tù tội, đòn vọt, tra tấn để trở thành “hạt giống trổ sinh hoa trái” cho cánh đồng lúa bát ngát của Giáo Hội Việt Nam. Vì: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”. (Tertullian)

Nguyện xin thánh Simon Phan Đắc Hòa cầu bầu cùng Chúa tăng thêm lòng mến, nghị lực và sự can đảm hy sinh cho các y tá, bác sỹ, y công, cán sự xã hội ngày nay trong ơn gọi cao quí của họ, để họ cũng trở nên những chứng nhân của tình yêu Giêsu giữa dòng đời. Đặc biệt trong môi trường của cơn đại dịch Vũ Hán hiện nay.

_______

Nguồn:

https://www.tonggiaophanhanoi.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/12909-ngay-10-12-thanh-simon-phan-dac-hoa-y-si-1774-1840.html

http://www.vietcatholic.net/News/Html/62035.htm

http://giaophannhatrang.net/index.php?nv=news&op=Hanh-Cac-Thanh/THANH-SI-MON-PHAN-DAC-HOA-7344

http://www.tinmung.net/cacthanh/118thanhtdvn/_TieuSu/Hoa_SimonPhanDac.htm

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.