Tâm lý giáo dục

Cha mẹ cần đòi hỏi nhiều hơn nơi con cái

Tiến sỹ Bùi Hữu Thư

Một tin mừng cho nền giáo dục Hoa Kỳ là Cơ Quan điều hành kỳ thi trắc nghiệm để tuyển sinh viên Đại Học (SAT) cho biết con số các thí sinh có điểm A- hay cao hơn đã gia tăng nhiều so với năm 2007 – từ 28 đến 32 %.  Nhưng lại có tin buồn là điểm trắc nghiệm SAT của các học sinh ưu tú nhất đã giảm bớt 12 điểm về Anh Ngữ và 6 điểm về toán.  Dường như các nhà trường đang cho học sinh những điểm số cao trong khi chúng lại có thành tích thấp.

Tại một trường ở tiểu bang Massachusett, ban giám đốc đề nghị thiết lập thêm những luật lệ về hành vi của học sinh trong khi ở trong hội trường.  Khi các nghệ sĩ khách – hay các học sinh trình diễn, học sinh phải “yên lặng bước vào, vỗ tay để tán thưởng cuộc trình diễn, và yên lặng đi ra.”  Khi các luật lệ mới này được ban hành, học sinh phản đối dữ dội.  Bắt học sinh phải vỗ tay trong một cuộc trình diễn là vi phạm quyền tự do diễn tả ý kiến của chúng.  Khi các giới chức nhà trường khám phá rằng họ phải tốn phí quá nhiều thì giờ dễ giàn xếp vụ phản đối này, họ đã rút lại các luật lệ đó.

Điều gì đã xẩy đến cho nước Mỹ về phương diện những tiêu chuẩn được đề ra cho con trẻ?  Cả ở trường lẫn ở nhà, người Hoa Kỳ càng ngày càng đòi hỏi ít hơn nơi cơn cái, và càng ngày họ càng ít nhận được sự giúp đỡ của con cái.  Một cuộc trưng cầu ý kiến của phụ huynh được thực hiện bởi Trung Tâm Hướng Dẫn Phụ Huynh ở Gastonia, North Calrolina cho hay là chỉ có 50 % trong số 1250 phụ huynh cho biết là con cái họ bằng lòng đóng góp trong công việc nhà mà không đòi hỏi thù lao.  Còn khi được hỏi là họ có nhờ con cái làm việc nhà không thì đã số đều trả lời rằng có.  Một số người tỏ vẻ hãnh diện vì con cái đã giúp ích được cha mẹ, trong khi con cái họ dường như đã quên đi những gì được gọi là “trách nhiệm, bổn phận, và việc đóng góp cho gia đình, và những đức tính này có ý nghĩa gì đối với tương lai của con trẻ.”  Thay vì bắt buộc con cái phải có trách nhiệm phần nào về đời sống của chúng, họ lại sắp xếp chương trình, lựa quần áo và thức đêm bất kể ngày giờ để làm bài dùm cho con cái.  Nhưng nếu không được thực tập tự lấy quyết định, kể cả những quyết định sai lầm, con trẻ sẽ không bao giờ có thể tự lập để đối phó với thế giới của người lớn.

Trẻ em Hoa Kỳ đang thua kém trẻ em các nước tân tiền khác về nhiều phương diện. Với số trẻ vị thành niên đang đi học có bầu hàng năm gia tăng, cùng với sự bạo động trên đường phố, và súng ống trong trường học, chúng ta phải nghĩ rằng các bậc phụ huynh và giới chức giáo dục phải đòi hỏi những tiêu chuẩn cứng rắn hơn ở nhà và ở trường học.  Nhưng chúng ta không thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ điều này đang xảy ra.

Mười hai nằm về trước Ủy Ban Quốc Gia về Giáo Dục Ưu Tú đã cho ấn hành một bản tường trình về hiện trạng của nền giáo dục Hoa Kỳ có tên là “A Nation at Risk”  (Một Quốc Gia Đang Lâm Nguy).  Bản tường trình này công bố “một mức độ thấp kém càng gia tăng” và đề nghị những sự cải tiến toàn diện, kể cả thêm nhiều bài làm ở nhà và một niên khóa dài hơn.  Từ đó đến nay chưa thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ số bài vở làm ở nhà đã gia tăng cũng như niên học đã kéo dài hơn.

Vì không đòi hỏi những tiêu chuẩn cao về học vấn, nhà trường đang bỏ phí năng lực của những bộ óc thông minh nhất.  Mặc dầu hai phần ba các trường học có các chương trình cho các lớp thần đồng GT, AP, đa số học sinh chỉ học có hai hay ba giờ một tuần trong các lớp này.  Phần thì giờ còn lại được dành cho các lớp thường lệ trong đó chúng không được thách đố và dễ bị chán nản.

So sánh học bạ của học sinh Hoa Kỳ với học sinh Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan, một giáo sư về môn tâm lý học ở Đại Học Michigan đã thấy rằng học sinh ở các quốc gia kia vượt hơn rất xa.  Ở lớp Năm chẳng hạn, số điểm của học sinh Hoa Kỳ cao nhất chỉ bằng số điểm thấp nhất của học sinh Á Châu. Tuy nhiên khi thăm dò ý kiến của phụ huynh thì trên 80% phụ huynh Hoa Kỳ cho là con cái của họ được coi là từ “giỏi” đến “ưu hạng”.

Phụ huynh lại còn làm khó dễ cho nhà trường khi họ hỗ trợ cho con cái bất kể hành vi và thành tích học vấn.  Trong khi đa số phụ huynh đã công nhận rằng khi còn nhỏ, mỗi khi họ gặp phải vấn đề trọng trường thì về nhà họ không tránh khỏi ăn đòn.  Cha mẹ của họ còn mắng là: “Đừng có đổ lỗi cho thầy cô, đừng có đổ tọi cho bạn bè, mày phải tự lo lấy thân mình.”  Ngày nay, mỗi khi con cái bị phạt, là cha mẹ kéo ngay đến trường trong vòng 15 phút để bênh vực quyền lợi của con cái – nếu cần thì đưa nhà trường ra tòa.

Tại sao nước Hoa Kỳ, một quốc gia luôn luôn hãnh diện về việc đặt những mục tiêu cao và đạt được các mục tiêu này, lại thay đổi nhiều như vậy?  Điều này đã xảy ra chỉ vì những ý định tốt đẹp lúc ban đầu.  Trong các thập niên 1960 và 1970, các nhà tâm lý học khuyến khích phụ huynh và giáo chức nhấn mạnh về sự phát triển tình cảm của con trẻ, cũng như sự phát triển về trí tuệ.  Các nhà tâm lý học này cũng dậy rằng muốn  trở thành những người lớn thành công, trẻ em cần rất nhiều thứ để giúp cho chúng xây dựng được lòng tự tin và tự trọng.

Trẻ em cần được nhắc nhở không ngừng rằng chúng rất “đặc biệt” và “tuyệt vời”, phải nhận được rất nhiều sự thương yêu chiều chuộng, ngợi khen mỗi khi làm được một cái gì, và được tưởng thưởng về học vấn, không phải bằng điểm tốt, mà bằng những “nhãn hiệu có hình bộ mặt tươi cười” (stickers).  Sau đó thì chúng sẽ cảm thấy sung suớng, và được thúc đẩy để thành công tại nhà trường, để hòa hợp với bạn bè, và thành công về mọi khía cạnh trong đời.  Vấn đề này đối với nhiều phụ huynh có nghĩa là “Bât cứ cái gì chúng làm cũng được coi là tốt đẹp”.  Chính điều này đã tạo nên những đứa trẻ ích kỷ, tự mãn không thể đối phó với những đòi hỏi của thế giới bên ngoài.  Lòng tự tin và tự trọng không thể được gây dựng vì những lời khen tốt đẹp của mọi người.  Chúng chỉ có thể có được lòng tự tin và tự trọng bằng cách đối diện với những thử thách bằng sự kiên tâm và bền chí.

Song song với trào lưu “tự tin và tự trọng” là niềm tin phổ quát rằng một số các đứa trẻ bẩm sinh đã thông minh trong khi những đứa khác thì không được như vậy.  Các trường bên Nhật và phụ huynh người Nhật tin rằng thành tích học vấn tốt là do ở sự chuyên cần, thay vì trí thông minh bẩm sinh.  Điều này không đúng với các phụ huynh và trường học Hoa Kỳ.  Hệ thống giáo dục của Hoa kỳ được dựa trên một số các ý kiến sai lầm.  Cần phải nhấn mạnh rằng: “Thông minh không phải là cái gì sẵn có.  Thông minh là điều mọi người có thể đạt tới được.”

Sắp xếp các học sinh kém vào các lớp dạy bù với những sự đòi hỏi tối thiểu có vẻ hợp lý, nhưng lại có hậu quả trái nghịch.  Nếu một học sinh xuất sắc có một số vốn ngữ vựng 1000 được chú trọng nhiều hơn, trong khi một học sinh kém chỉ được học có 450 chữ, thì sự cách biệt chỉ gia tăng nhiều thêm.  Một thí dụ về những gì học sinh có thể đạt được khi được thách đố có thể được dẫn chứng ở thành quả của trường Trung học Đê Nhất Cấp Burnett ở San Jose, California.  Năm 2009, trường này là trường dành cho các học sinh học kém.  Chẳng hạn, về toán, cứ năm học sinh thì có bốn đứa học các lớp toán dậy bù, mà vẫn còn càng ngày càng bị thụt lùi thêm.  Với khả năng chứa được 800 học sinh, năm ấy Burnett chỉ có một sĩ số 500.  Điểm thi trắc nghiệm sắp hạng trường này thấp nhất trong tất cả các trường Trung Học Đê Nhất Cấp ở San Jose.

Ngày nay, điểm trắc nghiệm của Burnett về nhiều môn đứng trên trung bình của nha học chánh, và vẫn còn gia tăng.  Năm ngoài trường phải khóa sổ không cho học sinh ghi danh thêm 45 ngày trước khi khai giảng, vì có quá nhiều phụ huynh muốn cho con em theo học ở đây.

Điều gì đã thúc đẩy sự thay đổi hoàn toàn này?  Một yếu tố giản dị là: thay vì chỉ chờ đợi rất ít ở học sinh và sắp chúng vào những lớp thật dễ, nhà trường đòi hỏi nhiều hơn.  “Đừng có học bù, hãy học gia tốc” (Accelerated vs. Remedial) đã trở thành khẩu hiệu cho chương trình học cao cấp của trường.  Chương trình này đòi hỏi ở những học sinh kém những sự thử thách về các môn văn chương, khoa học, giải quyết vấn đề và thảo luận phân tích, y như những học sinh giỏi nhất.  Tất cả mọi học sinh lớp Tám đều phải học Đại Số; tất cả học sinh lớp Bảy học Tiền Đại Số; tất cả học sinh lớp Sáu học Số Học Cao Cấp.

Họ đặt ra những tiêu chuẩn cao và tổ chức nhà trường để cho học sinh có thể đạt được những tiêu chuẩn này.  Học sinh được khuyến khích và thúc đẩy.  Chúng thực sự đã đáp ứng được những thử thách khó khăn này.  Ngày nay đã có trên 500 trường trên khắp lãnh thổ Hoa Kỳ có các chương trình học cao cấp AP (Advanced Programs).

Một trình độ đòi hỏi cao hơn đối với giới trẻ cần được thiết lập trong toàn thể xã hội.  Sau đây là những đề nghị về cách thức tạo dựng một bầu khí chờ đợi cao hơn, có lợi cho con cái của chúng ta và chính chúng ta:

Hãy nhớ ai là người trách nhiệm.  Các tiêu chuẩn do phụ huynh, xã hội và nhà trường đặt ra, không phải là do sự đầu phiếu của con trẻ.  Phải nói rõ sự mong đợi của chúng ta, không được mềm yếu, và đừng cho chúng thấy có sự mâu thuẫn như: “Bố cũng gặp khó khăn với môn Toán ngày xưa.”  Lắng nghe con cái, nhưng phải cho chúng biết rằng cha mẹ luôn luôn là người ấn định những lề luật cuối cùng.

Đừng cho phép chúng bỏ cuộc.  Trẻ em thường bỏ cuộc quá nhanh, tại sân chơi, trong việc tranh tài thể thao và các trò chơi khác.  Nếu phải mất trên 10 phút để giải một bài toán là chúng bỏ cuộc và tìm người giúp đỡ.  Phải dạy con cái kiên trì “cố gắng thử, và cố gắng mãi.”

Trao các công việc nhà cho chúng.  Những công việc nhà đều đặn và có ý nghĩa sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của bổn phận đối với người khác.  Hơn nữa, các công việc nhà dạy chúng biết chúng là những thành phần hữu dụng và quí giá trong gia đình.  Những đứa trẻ biết lo việc nhà sẽ trở thành những người lớn thành công và có hạnh phúc.

Một công việc trao cho đứa trẻ có thể rất là giản dị, nhưng phải mang theo một trách nhiệm rõ ràng.  Một đứa bé bảy tuổi được giao cho việc theo rõi sự cung cấp sà bông và kem đánh răng.  Khi một trong hai món đã hết, nó có bổn phận phải tiếp tế thêm bằng cách lấy ra từ cái tủ hay phải đi với mẹ nó ra chợ mua.  Đây là một công việc tầm thường, nhưng lại là một việc cả nhà phải trông cạy ở nó.  Điều này làm cho nó cảm thấy mình trở nên quan trọng.

Hãy xây dựng những nấc thang.  Con trẻ không thể nhảy một bước lên tới đỉnh,  làm những bước thang giúp cho chúng có thể leo lên từng bậc.  Nếu có đứa trẻ hỏi: “Nước Thái Lan nằm ở đâu?” một người phụ huynh biết dùng các bước thang sẽ bắt đầu bằng cách nói: “Chúng ta thử cùng tìm với nhau xem.”  Người phụ huynh này sẽ lợi dụng dịp này để dạy cho con biết sử dụng những tài liệu tham khảo, và cho con có một dụng cụ để có thể tự tiến cao hơn.

Đừng đưa cho chúng những câu trả lời.  Đừng có lý luận kiểu “nếu” và “nhưng”: việc làm bài ở nhà là trách nhiệm của con trẻ.  Hay kiểm xoát cho biết chúng có làm không, nhưng đừng làm dùm cho chúng.  Nếu chúng ta giải dùm chúng bài toán hoặc nghiên cứu dùm nó bài phúc trình về môn sử ký, nó sẽ không bao giờ biết làm một mình về phương diện học vấn cũng như các phương diện khác.  Làm dùm nó một dự án khoa học không phải là phương thức để dạy khoa học cũng như dạy dỗ chúng về tính ngay thẳng.

Khuyến khích những môn giải trí lành mạnh.  Con trẻ cần được hướng dẫn về những  môn giải trí sau giờ học có liên hệ đến việc dùng trí óc và dậy cho chúng biết tự lập, như đọc sách, ráp các kiểu mẫu xe cộ, tàu bè, máy bay.., sưu tầm con tem, và nấu nướng.  Các trẻ em ít gặp vấn đề nếu được theo rõi, kiểm xoát và phải theo những luật lệ về đi đâu, giờ giấc, và làm gì sau giờ học.

Đừng giải quyết vấn đề dùm cho chúng.  Đứng ra, bắt tay vào để sửa sai cho công việc của con trẻ rất dễ dàng, thí dụ: một cuộc tranh cãi với bạn bè ở trường, đánh mất một cuốn sách mượn ở thư viện, tiêu quá số tiền được cho phép.  Và khó mà ngồi yên khi con em bị phạt vì có hành vi xấu ở trường.  Tuy nhiên mỗi lúc khó khăn ấy là một bài học quan trọng cho chúng suốt đời – đó là mỗi hành động đều có một hậu quả.  Do đó, cần bắt buộc con trẻ phải đối diện với các hậu quả. Và những sự thất bại này cũng là những kinh nghiệm quý báu.

Chỉ cho chúng thấy con đường đi tới đích.  Cần nói rõ là chúng ta đòi hỏi những gì tốt đẹp nhất cho con cái và giúp đỡ chúng đạt được những mục tiêu ấy.  Yếu tố căn bản ở đây là sự trợ giúp của cha mẹ, ông bà, thầy cô, và bạn bè, khi họ nói rằng: “Em làm được việc này”, mặc dù chính đứa trẻ không tin là chúng có thể tự làm được.

Các gia đình Việt Nam trên đất Hoa Kỳ con duy trì được truyền thống hiếu học, còn lo lắng dạy dỗ và kèm cho con em học thêm.  Chúng ta cũng đòi hỏi nhiều ở con cái hơn các gia đình Hoa Kỳ.  Tuy nhiên, nếu chúng ta quá bận bịu về công ăn việc làm và không bỏ thì giờ trông nom, dạy dỗ con cái, con cái chúng ta cũng sẽ bị rơi vào tình trạng học kém và thiếu tinh thần trách nhiệm như đa số các trẻ em Hoa Kỳ.  Sự đòi hỏi quá ít của nhà trường, của thầy cô, và ảnh hưởng của bạn bè sẽ làm cho con em chúng ta học tà tà.  Vì thấy học hành quá dễ mà vẫn đạt được điểm tốt, chúng sẽ sinh ra lười biếng.  Chúng ta cần phải thúc dục con em ghi danh học các lớp học khó, như thần đồng (GT), các lớp gia tốc (AP).  Trẻ em cần được thách đố từ khi còn nhỏ, nếu không khi chúng lên Đại Học, chúng sẽ không thể nào đối phó được với những đòi hỏi quá cao của giáo trình, cũng như không thể sống tự lập.  Nên khuyến khích con em làm thêm nhiều bài tập trong sách mặc dù thầy cô chỉ cho năm hay mười bài.  Chỉ có đọc sách nhiều mới giúp cho chúng cơ số vốn ngữ vựng đầy đủ, và mới có thể viết tiếng Anh thông thạo và dễ dàng.  Học sinh Việt nam đa số vẫn còn được lên bảng danh dự mỗi tam cá nguyệt tại các trường.  Số học sinh Việt Nam ra trường đậu thủ khoa và á khoa mỗi năm vẫn còn nhiều.  Ước chỉ tất cả các phụ huynh ý thức được việc này, là phải thúc đẩy và trông nom con cái, có vậy chúng ta mới ngăn chận được những cảnh con cái bỏ nhà đi hoang, đàng điếm, và gia nhập các băng đảng.

 

 

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.