Dr. Lương Huỳnh Ngân chuyển ngữ
BÀI ĐỌC 1 Lễ Đức Mẹ Lên Trời (Kh 11,19a ;12,1-6a,10ab)
15 tháng 8 năm A-B-C.
“Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng“.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
11,19 Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ.
12,1 Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao.
2 Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con.
3 Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện.
4 Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.
5 Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người.
6a Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở,
10ab Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thời giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Ki-tô của Người.
Như chúng ta biết sách Khải Huyền hướng tới những Ki-tô hữu bị bách hại để nâng đỡ họ trong khi bị thử thách : nội dung từ đầu đến cuối là một sứ điệp vinh thắng. Nhưng tất cả là một điệp văn mã hoá, chúng ta phải giải mã. Trong thị kiến người phụ nữ và con mãng xà, cuộc chiến đang diễn ra, các thế lực của sự dữ được thể hiện bằng « con mãng xà lửa đỏ » được buông thả, hung dữ đến tận trời cao.
Nhưng ngay những chữ đầu, tác giả xác định ngay là nó sẽ không đánh bại được sự cứu độ của Thiên Chúa. Lý do là Hòm Bia Giao ước hiện ra trên trời. «11,19 Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ » Đối với dân Do Thái hòm bia Giao Uớc là một dấu chỉ thấy được của Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thế nhưng nó đã biến mất không ai biết vì sao, từ lúc lưu đày sang Ba-by-lon. Người ta nghĩ rằng tiên tri Giê-rê-mi-a đã giữ kỹ nó bằng cách đem đi giấu đâu đó trên núi Nê-bo (2Mcb 2,8). Mọi người thường tin rằng nó sẽ xuất hiện khi đấng Mê-si-a đến, thế nhưng hôm nay nó xuất hiện trên bầu trời, điều này ám chỉ cho chúng ta ngày cùng tận đã đến.
Thế rồi – vẫn luôn luôn trên trời hiện ra – « một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. 2 Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con ». Chúng ta tự hỏi người phụ nữ ấy là ai. Một lần nữa Cựu Ước cho chúng ta giải đáp, vì thông thường quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài chọn được miêu tả bằng một biểu tượng là một hôn lễ. Ví dụ như trong Hô-sê : « 21 Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương; 22 Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA » ( Hs 2, 21-22). I-sa-i-a triển khai đề tài hôn ước này đến nỗi giới thiệu đấng Mê-si-a đến như một cuộc sinh nở, vì It-ra-en phải sinh ra đấng Mê-si-a. «7 Trước thời chuyển dạ, nó đã sinh con, trước cơn đau, nó đã cho con trai chào đời. 8 Ai đã nghe một chuyện như thế? Ai đã thấy một điều như vậy? Có nước nào sinh ra nội một ngày? Có dân nào chào đời trong một lúc? Thế mà Xi-on vừa mới chuyển dạ đã sinh được đàn con » ( Is 66,7-8). Trong những câu này, người phụ nữ trong sách Khải Huyền chỉ dân Chúa chọn, sinh ra đấng Mê-si-a. Sự sinh nở, ôi biết bao là đau khổ, của các môn đệ Chúa Ki-tô bị bách hại, nhưng chính tác giả vừa nói : một nhân loại mới vừa được sinh ra.
Trong lúc này cuộc chiến vẫn tiếp diễn và vô cùng hung bạo đến nỗi cái đuôi con mãng xà : « quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất », có nghĩa là có phần nào chiến thắng. Nhưng nó không thể đi xa hơn. Nó toan làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa, vì thế, nó « đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà ». Cuộc sinh nở được xảy ra, đứa bé trai ấy chính là đấng Mê-si-a đã hứa, vì tác giả viết ra nguyên văn câu Thánh Vịnh 2 nói về đấng Mê-si-a :
«7 Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của CHÚA, Người phán bảo tôi rằng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
8 Con cứ xin, rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa.
9 Con sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành, nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm. » ( Tv2,7-9)
Danh từ mục tử cũng là một danh từ cổ điển để chỉ đấng mê-si-a.
Hình ảnh kế tiếp là cảnh đứa bé bị bắt đi khỏi « Thiên Chúa và triều thiên của Ngài » điều này tượng trưng sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô. Đối với những Ki-tô hữu thời ban đầu, đấng Mê-si-a được gọi là kẻ sơ sinh, là điều rõ ràng dễ hiểu đối với họ. Thế nhưng dân Ngài còn ở lại thế gian ; như Chúa Giê-su nói qua Tin Mừng theo thánh Gio-an «11Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha » (Ga 17,11). Sa mạc là một thế giới khó ở nhưng trong đó họ được Thiên Chúa che chở. Hỡi những kẻ có đức tin hãy vững tin vào sự che chở của Chúa. Con mãng xà đã thất bại trên trời thì không thể thành công dưới thế.
Sách Khải Huyền vừa loan báo sự chiến thắng vinh hiển cho những tín hữu sơ khai vừa mới sinh ra nhân loại mới trong đau khổ của các cuộc bách hại « Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Ki-tô của Người »
Phần bổ túc :
Về sau người Ki-tô có lúc áp dụng sự thị kiến này cho Đấng Trinh Nữ Maria, nhưng đó chắc chắn không phải ý định của tác giả. Phụng vụ đề nghị chúng ta đọc bài này ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời, vì Đức Mẹ được xem như người đầu tiên được hưởng chiến thắng của Đấng Ki-tô.
Dĩ nhiên chúng ta có thể so sánh cuộc chiến giữa con mãng xà với người phụ nữ trong sách sáng thế : «15 Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó » ( St 3,15)
***
THÁNH VỊNH Lễ ĐỨC MẸ Lên Trời (Tv 44 (45) 11-16)
15 tháng 8 A-B-C
“Hoàng Hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng“
11 Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào,
đưa mắt nhìn và hãy lắng tai,
quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ.
12 Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái,
hãy vào phục lạy: “Người là Chúa của bà.”
13 Thiếu nữ thành Tia mang lễ tới,
phú hào trong xứ đến cầu ân.
14 Đẹp lộng lẫy, này đây công chúa,
mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng,
15 phục sức huy hoàng, được dẫn tới Quân Vương,
cùng các trinh nữ theo sau hầu cận.
16 Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước,
vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung.
Đọc ở mức độ nghĩa đen, bài thánh vịnh này có vẻ miêu tả hôn lễ các quân vương: Vua It-ra-en kết hôn cùng một công chúa nước ngoài để thắt chặt giao ước giữa hai dân tộc. Chính thật, vị hoàng tử chàng rể của bài thánh vịnh này không ai khác là chính Thiên Chúa và «… này đây công chúa, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng » là dân tộc It-ra-en được nhận vào vòng mật thiết với Thiên Chúa.
Chính tiên tri Hô-sê là người đầu tiên so sánh dân tộc It-ra-en là cô dâu trong hôn lễ : «16 Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.17 Từ nơi đó, Ta sẽ trả lại vườn nho của nó, biến thung lũng A-kho thành cửa khẩu hy vọng. Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân, như ngày nó đi lên từ Ai-cập.18 Vào ngày đó – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi”, chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa » ( Hs 2,16…18). Kế tiếp Giê-rê-mi-a vè Ê-dê-ki-en là « I-sa-i-a thứ hai và thứ ba » cũng triển khai đề tài hôn lễ giữa Thiên Chúa và dân Ngài chọn. Chúng ta nhận ra nơi đây các ngôn từ của các nghi lễ đính hôn và lễ cưới : các danh từ dịu dàng trìu mến, y phục ngày cưới, vòng hoa nàng dâu, sự chung thuỷ. Ví dụ như trong (Gr 2,2) : « ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai gieo trồng » ;hay trong (Is 62,5) : « 5 Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ ».
Còn sách Diễm ca là một đàm thoại dài giữa hai tình nhân, viết thành bảy bài thơ. Không đâu xác định ai là hai tình nhân trong cuộc đối thoại ấy nhưng người Do Thái nhận ra đó là cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Bằng chứng là họ chọn để đọc đặc biệt trong nghi lễ ngày tưởng niệm cuộc Vượt Qua, ngày đại lễ của Giao ước giữa Thiên Chúa và It-ra-en.
Điều này nói lên cô dâu quá có tính thế gian thường hay bất trung (Thờ bụt thần) và các tiên tri kể trên xem như tội ngoại tình những bất trung của dân chúng, tức là khi quay về thờ phượng bụt thần. Lúc bấy giờ lại có những từ ngữ : ghen tương, ngoại tình, trở lại và tha thứ, vì Thiên Chúa lúc nào cũng trung tín. Ví dụ như I-sa-i-a nói về những cuộc đi lang thang khi thất tình. Đó là bài ca bất hủ gọi là « Bài ca vườn nho » ( Is 5,1…7) «1 Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình. Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. 2 Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho. Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. … 7 Vườn nho của ĐỨC CHÚA các đạo binh, chính là nhà Ít-ra-en đó; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy chính là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than » Còn tiên tri Hô-sê, nói tới việc tôn thờ bụt thần gọi It-ra-en là đàng đĩ điếm. Tuy nhiên dù sao đi nữa Thiên Chúa luôn hứa hoà giải : « 4 Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ, chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn. Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân và không còn nhớ bao nhục nhằn thời goá bụa…10 Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, ĐỨC CHÚA là Đấng thương xót ngươi phán như vậy. (Is 54, 4 ;10)
Bài thánh vịnh của chúng ta hôm nay cũng nói về ngày hôn lễ ấy, cô dâu nước ngoài (đến từ thành Tia) được đưa đến vương triều It-ra-en, và phải từ chối mọi bụt thần để xứng đáng với dân tộc mới này cùng vị vua bản xứ. «11 Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ ». Chúng ta biết đó là vấn đề thiết yếu của thời vua Sa-lô-mon, ông đã cưới những người nước ngoài, tức là ngoại đạo, về sau hoàng hậu Giê-da-ben thời tiên tri Ê-li-a cũng thế. Dĩ nhiên khi đọc kỹ những lời khuyên cho công chúa thành Tia, đó chính thật hàm ý hướng về dân It-ra-en luôn bị cám dỗ rơi vào nạn thờ phượng bụt thần. Tại sao thờ phượng bụt thần lại chen vào những viễn tượng điền viên êm ả ? Vì đây không phải hôn lễ thế gian, vì chính vì thế điều được hay mất rất quan trọng, It-ra-en biết rằng dân tộc họ được chọn không phải là duy nhất. Chỉ trong sự trung tín với Thiên Chúa thì dân tộc họ mới thật sự làm chứng tá cho muôn dân. Cuối cùng, thật vậy Thánh Kinh cho phép chúng ta dám nghĩ rằng Chúa đề nghị kết hôn với cả nhân loại. Nhưng làm sao nhân loại biết nếu không ai thông báo ?
Khi Giáo Hội Ki-tô mừng Lễ Đức Mẹ Lên Trời và tôn ngài vào vinh quang của Thiên Chúa, là đã thấy trước viễn ảnh tất cả nhân loại được đưa vào vòng thân mật với Thiên Chúa.
***
BÀI ĐỌC 2 Lễ ĐỨC MẸ Lên Trời ( 1Cr 15,20-27a)
15 tháng 8 năm A-B-C
“Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Chúa“.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
20 Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trổi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.
21 Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.
22 Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.
23 Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người.
24 Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.
25 Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.
26 Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết,
27 vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô.
Ngày chúng ta cử hành trọng thể mừng Đức Mẹ Lên Trời thì Giáo Hội đề nghị chúng ta trong Phụng vụ suy gẫm với thánh Phao-lô sự phục sinh của Chúa Ki-tô, đối chiếu với cái chết của A-đam. Từ đó chúng ta có vài dữ kiện để suy nghĩ : điều gì có chung cả Đức Mẹ và Chúa Ki-tô mà A-đam không có ?
Chính bài Phúc Âm hôm nay nói về cuộc Viếng Thăm bà Ê-li-sa-bét, giúp chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ, người có đức tin, bà Ê-li-sa bét nói : «45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em »( Lc1,45). Đức Mẹ đã tin, tức là chấp nhận, không cần hiểu hết những gì sẽ xảy ra, kết hiệp với công trình của Thiên Chúa về ngài. Câu trả lời của Đức Mẹ cho xứ thần là mẫu gương người tín hữu : «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói » ( Lc1,38). Thế nhưng, nhiều lần «một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà » (Lc2, 35), như ngôn sứ Si-mê-ôn đã tiên báo. Điều tóm lược tốt nhất thái độ của Đức Maria là câu : «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa» (Lc1,38b). Đức Maria đơn sơ chấp nhận đời sống của ngài để phục vụ công trình của Chúa, và trong bài Magnificat, ngài cho chúng ta biết những ưu tư thầm kín của ngài : Đức Maria tự phát, nhìn lại cuộc đời của mình dưới ánh sáng của công trình Thiên Chúa cho dân Ngài, « 55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời »(Lc1,55).
Luôn luôn trong Thánh Kinh, mọi người đều biết điều đòi hỏi chúng ta là phải sẵn sàng trả lời « lạy Chúa, con đây », Áp-ra-ham, Mô-sê, Sa-mui-en được Chúa gọi đều biết trả lời như thế. Nhờ thế công trình của Thiên Chúa có thể vượt qua một giai đoạn mới. Lần lượt đến Chúa Ki-tô cũng theo một hành trình ấy của người tín hữu, và Tân Ước lúc nào cũng cho chúng ta những tấm gương tương tự. Trong đoạn Chúa bị Cám Dỗ, Ngài là Người trả lời những quyến rũ của kẻ cám dỗ chỉ bằng những lời nói của đức tin. Sở dĩ Chúa dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha : « xin cho ý Cha được thực hiện », là vì đó là điều Ngài quan tâm nhất. Cũng như Ngài nói cho các Tông Đồ trong đoạn về người đàn bà xứ Sa-ma-ri : « Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người » (Ga 4,34). Trước khi chết, trong vườn cây dầu Ngài không đính chính lại: « Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha » ( Mt 26,39). Và khi tác giả sách Do Thái tóm lược cuộc đời Chúa Giê-su, người viết : « … khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói…Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài »(Dt 10,5…10) Sở dĩ Chúa luôn luôn vâng phục, bất cứ trong tình huống nào là vì Người luôn cậy trông. Từ Ngài chúng ta cũng có thể nói « Phúc cho ai tin …» Sự phục sinh của Chúa đến để chứng minh rằng con đường Ngài chọn, con đường của đức tin, chính là con đường của sự sống, mặc dù trong ấy có sự chết thể xác.
Thánh Phao-lô trong thư cho tín hữu thành Roma hay trong thư này cho tín hữu Cô-rin-tô, ngài không ngừng đối chiếu hai thái độ giữa Chúa Ki-tô và A-đam : A-đam là những gì trái ngược hẳn lại, đối với Cây Hằng Sống cũng như làm chủ các tạo vật. Ông ngờ vực, không tin vào lòng nhân từ của Chúa. Từ chối không tuân theo một lề luật nào của Chúa. Thánh Phao-lô không có ý định nói nếu ông A-đam không phạm tội thì sao, nhưng ngài muốn nhắc lại cho chúng ta chỉ có con đường đưa đến sự sống đó là đi vào niềm vui của Thiên Chúa. Từ ngày A-đam bắt đầu nghi ngờ Chúa, ngày ấy ông ta đã quay lưng lại với Cây Hằng Sống. Phải nói lên điều này trong thì hiện tại, vì đối với thánh Phao-lô, A-đam không phải một người của quá khứ, đó là một loại người. Các giáo trưởng Do Thái thường nói : « Mỗi người chúng ta là một A-đam ».
Nhờ thế chúng ta hiểu câu sau đây của thánh Phao-lô : « .22 Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống » (1Cr 15,22). Khi chúng ta sống như A-đam là chúng ta xa cách Chúa và chúng ta tự cắt lìa với sự sống mà Chúa muốn cho chúng ta sống dồi dào. Trái lại chọn con đường tin cậy như Chúa Ki-tô trong bất cứ tình huống nào, là bước thêm một bước gần đến sự sống thật. Như Chúa Giê-su nói trong Tin Mừng theo thánh Gio-an : «3 Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô ». (Ga17,3). Nhận biết theo Thánh Kinh là tin, yêu mến, cậy trông. Như thánh Phao-lô nói : « nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống » (1Cr 15,22), tức là ghép cùng với Ngài, bằng cách sống giống như Ngài.
Bà Ê-li-sa-bét nói về Đức Maria : «45 Em thật có phúc, vì đã tin » (Lc1,45a). Chúa Giê-su cũng áp dụng lời chúc phúc ấy cho những kẻ tin «”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành. »(Lc 8,21)
***
PHÚC ÂM Lễ ĐỨC MẸ Lên Trời ( Lc1, 39-56)
Alleluia, alleluia!
– Đức Maria được mời gọi lên trời; đạo binh các thiên thần mừng rỡ hân hoan. – Alleluia.
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ“.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.
40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.
41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,
42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.
43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?
44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.
45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat)
46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Chúng ta đang trong đoạn khởi đầu Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Có hai tường thuật về Truyền Tin : Da-ca-ri-a về Gio-an-Tẩy-Giả, kế tiếp là Đức Ma-ri-a về Chúa Giê-su. Và đoạn này chúng ta thường gọi là « Đức Ma-ri-a Viếng Thăm bà Ê-li-sa-bét ». Tất cả có vẻ như những truyện gia đình, nhưng xin đừng nhầm lẫn. Thực ra thánh Lu-ca viết một sáng tác có tính cách cực kỳ thần học. Chắc chắn phải nhấn mạnh tất cả ý nghĩa của câu trung tâm của bài : «… bà( Ê-li-sa-bét) được đầy tràn Thánh Thần 42 liền kêu lớn tiếng ». Điều này muốn nói rằng chính Chúa Thánh Thần nói để loan báo ngay từ đầu Phúc Âm, sau này sẽ là Tin Mừng cho cả sách thánh Lu-ca : Đấng vừa được thụ thai là «Thiên Chúa ».
Những lời nào Chúa Thánh Thần linh hứng cho bà Ê-li-sa-bét ? “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc ». Có nghĩa là Chúa hành động nơi em và bởi em và Thiên Chúa hành động nơi Con em và bởi Con em. Chúa Thánh Thần là đấng làm cho chúng ta khám phá ra trong đời sống chúng ta – và trong đời sống mọi người – dấu ấn của công trình Thiên Chúa.
Không phải thánh Lu-ca không biết câu « Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và con lòng bà gồm phúc lạ » là một câu lấy một phần từ Cựu Ước. Chính từ sách Giu-đít (Judith) (Jdt 13,18-19). Khi bà Judith từ trận chiến về, sau khi chém đầu tướng Hô-lô-phen (Holopherne) , bà được vua Ut-đi-gia-hu tiếp đón trong lều trại phe mình, ông nói « Bà có phúc hơn mọi người nữ và Thiên Chúa cũng được chúc phúc ». Đức Maria được sánh với Giu-đít và khi đọc song song hai câu ấy gợi ý cho chúng ta hai điều. Câu « bà có phúc lạ hơn mọi người nữ » có hàm ý bà là người chiến thắng và bảo toàn cho nhân loại vĩnh viễn chiến thắng sự dữ. Còn phần sau (với Giu-đít thì « Thiên Chúa cũng được chúc phúc » còn Đức Maria thì « Con lòng bà gồm phước lạ ») loan báo rằng « Con lòng bà chính là Thiên Chúa ». Hẳn bài tường thuật này của thánh Lu-ca không chỉ có tính cách giai thoại !
Nhân dịp này chúng ta không thể không ngạc nhiên khi so sánh lời nói mạnh mẽ của bà Ê-li-sa-bét và sự im lặng của ông Da-ca-ri-a ! Vì bà đầy Chúa Thánh Thần, còn ông Da-ca-ri-a không còn nói được vì sau khi sứ thần đến, ông nghi ngờ những lời tiên báo ông Gio-an Tẩy Giả sẽ được sinh ra.
Còn ông Gio-an Tẩy-giả cũng biểu lộ niềm vui : bà Ê-li-sa-bét nói : « con trong bụng đã nhảy lên vui sướng » vừa khi nghe tiếng của đức Maria. Cũng phải nói rằng chính ông Gio-an Tẩy-giả cũng đầy Thánh Thần Chúa, như sứ thần ông Da-ca-ri-a nói: « Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an.14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời….Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần » (Lc1,13…15)
Chúng ta hãy trở về với những lời của bà Ê-li-sa-bét : « 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? » Cũng thế, những lời này đem chúng ta trở về một giai đoạn của Cựu Ước : lúc Hòm Bia Giao Ước được rước về Giê-ru-sa-lem (2Sm 6, 2-11), lúc vua Đa-vít ngự trị trên Giê-ru-sa-lem, nay ngài có một ngôi đền xứng đáng với vua It-ra-en, ông có ý rước Hòm Bia Giao Ước lên thủ đô mới. Nhưng nơi ông lúc bấy giờ phân vân giữa lòng sốt sắng và sợ hãi. Lúc đầu có một lúc sốt sắng và vui trong lòng : «1 Vua Đa-vít lại quy tụ toàn thể tinh binh Ít-ra-en: ba mươi ngàn người.2 Từ Ba-a-lê Giu-đa, vua Đa-vít lên đường và cùng đi với toàn dân đang ở với vua, để đưa Hòm Bia Thiên Chúa từ đó lên, Hòm Bia mang danh ĐỨC CHÚA các đạo binh, Đấng ngự trên các thần hộ giá.3 Người ta đặt Hòm Bia Thiên Chúa lên một cỗ xe mới và mang đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi. Các con ông A-vi-na-đáp là Út-da và Ác-giô điều khiển cỗ xe mới.4 Họ đưa xe đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Hòm Bia Thiên Chúa, còn ông Ác-giô đi trước Hòm Bia.5 Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en vui đùa trước nhan ĐỨC CHÚA, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con, chũm choẹ, thanh la » (2Sm 1-5). Nhưng sau đó có một sự cố nhắc Đa-vít rằng không ai đương nhiên có thể làm như thế: người nào vô phận sự đặt tay lên Hòm Bia sẽ chết ngay.
Vì lẽ đó nỗi sợ hãi đã thắng nơi vua Đa-vít, ông nói : « “Hòm Bia ĐỨC CHÚA đến với tôi thế nào được? » (2Sm 6,9) Cuộc hành trình bắt buộc ngừng ở đấy : Đa-vít nghĩ rằng nên cẩn thận từ bỏ ý định đem Hòm Bia về, nên để lại nhà một người nọ tên Ô-vết Ê-đom và ở đó ba tháng, đem lại hạnh phúc cho nhà này. Bấy giờ Đa-vít an tâm : «12Người ta báo tin cho vua Đa-vít rằng :”Vì Hòm Bia Thiên Chúa, ĐỨC CHÚA đã giáng phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm cùng tất cả những gì thuộc về ông.”Vua Đa-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua Đa-vít, trong niềm hân hoan.13 Khi những người khiêng Hòm Bia của ĐỨC CHÚA đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo.14 Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan ĐỨC CHÚA.15 Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en rước Hòm Bia ĐỨC CHÚA lên giữa tiếng hò reo với tiếng tù và » ( 2Sm 6,12-14)
Chúng ta có thể nghĩ rằng thánh Lu-ca sung sướng gom hết những chi tiết trong bài tường thuật cuộc Viếng Thăm, những gì liên quan đến sự kiện rước Hòm Bia lên Giê-ru-sa-lem : hai hành trình của Hòm Bia và của đấng Ma-ri-a được diễn ra cùng một vùng địa lý : những ngọn đồi xứ Giu-đa; Hòm bia vào nhà của O-vết Ê-đom và đem lại cho nhà này hạnh phúc (2Sm 6,12), bà Ma-ri-a vào nhà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét và cũng mang lại hạnh phúc cho nhà này ; Hòm bia được đặt lại ba tháng, Đức Ma-ri-a cũng ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét ba tháng và sau cùng Đa-vít nhảy múa trước Hòm Bia (Sách thánh nói « vua Đa-vít nhảy múa quay cuồng trước nhan ĐỨC CHÚA » (2Sm6, 16)còn thánh Lu-ca ghi nhận rằng ông Gio-an Tẩy-giả : « trong bụng nhảy lên » khi vừa gặp đức Ma-ri-a đang cưu mang Hài Nhi.
Tất cả những điều này dĩ nhiên không có gì ngẫu nhiên, thánh Lu-ca cho chúng ta ngắm nhìn Đức Maria như Hòm Bia Giao Ước Mới. Chính thực ra Hòm Bia là nơi Chúa ngự. Đức Maria mang trong thân mình ngài một cách huyền bí sự hiện diện của Thiên Chúa. Qua Đức Mẹ Chúa ngự trong trần thế : « 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta » (Ga1,14). Tất cả nhờ đức tin của Mẹ Maria. Bà Ê-li-sa-bét nói «45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.» (Lc1,45)
Và để đáp lại những lời của bà Ê-li-sa-bét, Đức Maria cất tiếng hát bài Magnificat. Điều thật đáng ngạc nhiên về bài Magnificat này : tất cả các Thánh Kinh của chúng ta, tới trang này của Tin Mừng theo thánh Lu-ca, bên lề được chép thật nhiều ghi chú trong các sách khác của Thánh Kinh và chúng ta nhận ra nhiều đoạn ngắn Thánh Vịnh trong gần như mỗi câu của bài Magnificat. Điều này chứng minh rằng đấng Maria không bịa ra lời cầu nguyện của ngài. Để tỏ bày sự kinh ngạc thán phục của ngài trước kỳ công của Chúa, ngài chỉ có đơn sơ lấy lại những câu của tổ tiên, cha ông trong niềm tin.
Nơi đây chúng ta rút ra hai bài học. Trước tiên bài học khiêm nhường. Mặc dù đứng trước một trường hợp thật đặc biệt, Mẹ Maria một cách tự phát đơn sơ đọc lại những lời cầu nguyện của dân ngài. Kế đến là bài học về tinh thần cộng đồng (ngày nay ta gọi là nhận thức trực giác về Giáo Hội), vì không có một lời trích Thánh Kinh nào trong bài Magnificat có tính cách cá nhân. Luôn luôn có ý nghĩa cho cả toàn thể dân chúng. Đó là một đặc thái của lời cầu nguyện dân Do Thái : người tín hữu không bao giờ quên mình thuộc về dân tộc và mọi sứ vụ riêng mình không những không làm xa cộng đồng mà còn luôn để phục vụ cộng đồng dân tộc mình.
Vì thế chúng ta nhìn ra trong lời cầu nguyện của đấng Maria những đề tài quan trọng của Thánh Kinh. Tôi xin kể ít nữa bốn đề tài :
1/ Niềm vui đức tin
2/ Chúa tín trung với Giao Ước và những lời hứa của Ngài.
3/- Cảm tạ những kỳ công của Thiên Chúa.
4/-Thiên Chúa chuộng kẻ nghèo hèn và người thấp kém.
Trước hết niềm vui đức tin. « Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi ». Câu này gần như lời ứng đối với sách I-sa-i-a : «10 Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!» (Is 61,10). Đây là một bài từ I-sa-i-a thứ ba, tức là khoảng 500 trước CN. Và 100 năm về trước, khoảng 600 năm trước CN, sách Kha-ba-cúc cũng đã nói «18 Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì ĐỨC CHÚA, hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.» (Kc3,18). Trong các thánh vịnh cũng thế, có biết bao từ ngữ biểu hiện niềm vui sâu sắc của tín hữu. Ví dụ như: « 7 CHÚA là sức mạnh, là khiên mộc chở che tôi, lòng tôi đặt tin tưởng nơi Người. Tôi đã được Người thương trợ giúp, nên lòng tôi vui mừng hoan hỷ, cất cao tiếng hát tạ ơn Người. 8 CHÚA là sức mạnh cho dân Chúa, là thành trì cứu độ »(Tv 28,7-8); «4 Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA, ta đồng thanh tán tụng danh Người… 11 Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ, còn ai tìm kiếm CHÚA chẳng thiếu của gì » ( Tv34,4.11) ; « 9 Hồn tôi sẽ vui mừng trong CHÚA, hoan hỷ vì Người cứu thoát tôi.» (Tv 35,9) ; và bà Lê-a vợ ông Gia-cóp cũng đã nói lúc sinh đứa con thứ hai :“Tôi hạnh phúc biết bao! Vì các cô gái sẽ khen ngợi tôi có phúc » ( St 30,13) .
Điều thứ hai : Chúa tín trung với Giao Ước và những lời hứa của Ngài. «8 Nhưng phần ngươi, hỡi Ít-ra-en, tôi tớ của Ta, hỡi Gia-cóp, kẻ Ta tuyển chọn, dòng dõi Áp-ra-ham, bạn của Ta, 9 Ta đã nắm chặt lấy ngươi, đưa ngươi về từ tận cùng cõi đất, kêu gọi ngươi từ những miền xa thẳm. Ta đã nói với ngươi: “Ngươi là tôi tớ Ta, Ta đã chọn ngươi, Ta đâu ruồng bỏ » (Is 41, 8-9) ; «20 Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín cho Gia-cóp, và tình thương cho Áp-ra-ham, như đã thề với tổ phụ chúng con từ thuở trước » (Mk 7,20) ; « 6 Lạy CHÚA, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời » (Tv 25,6) ; «8 Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở, vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn. Con lâm cảnh ngặt nghèo, Ngài lo lắng chăm nom » (Tv 31,8) ; «3 Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta » (Tv98,3) ; «5 Bởi vì CHÚA nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín » (Tv100,5); «17 Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại, dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn. Người xử công minh cả với đời con cháu,18 cả những ai giữ giao ước của Người và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.(Tv103,17-18).
Điều thứ ba, Cảm tạ những kỳ công của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng đó là một trong những đề tài thiết yếu trong Thánh Kinh.Và khi chúng ta nói công trình của Thiên Chúa, ấy là đề tài duy nhất của Thánh Kinh, đó là công trình vĩ đại của Thiên Chúa, công trình giải thoát nhân loại.Ví dụ như trong Thánh Vịnh (67,4-5) : « 4 Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! 5 Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ » ; Hay là :« 21 chính Người là Đấng anh (em) phải ca tụng; chính Người là Thiên Chúa của anh (em), Đấng đã làm cho anh (em) những điều lớn lao và khủng khiếp mà chính mắt anh (em) đã thấy đó » ( Đnl10,21) ; «19 Lạy Thiên Chúa, đức chính trực của Ngài cao vời vợi, Ngài đã làm những việc lớn lao, lạy Thiên Chúa, nào ai sánh tày!»(Tv 71,19) ; «9 Người đem lại cho dân ơn giải thoát, thiết lập giao ước đến muôn đời. Tôn danh Người thánh thiêng khả uý » (Tv111,9) .
Điều thứ tư : Thiên Chúa chuộng kẻ nghèo hèn và người thấp kém. Chúa luôn luôn bênh vực và tái lập phẩm giá cho họ : «1 Bà An-na cầu nguyện và nói: “Tâm hồn con hoan hỷ vì ĐỨC CHÚA, nhờ ĐỨC CHÚA, con ngẩng đầu hiên ngang. Con mở miệng nhạo báng quân thù: Vâng, con vui sướng vì được Ngài cứu độ…
7 ĐỨC CHÚA bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao.
8 Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng. Vì nền móng địa cầu là của ĐỨC CHÚA, Người đặt cả hoàn vũ lên trên » ( 1Sm2, 1.7.8.)
Hay trong (Tv113,7) : «7 Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro » ;
(Is 57,15) « 15 Bởi vì Đấng muôn trùng cao cả, Đấng ngự chốn vĩnh hằng, Đấng mang danh chí thánh, Người phán như sau: Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát »
( Hc 10,14) «14 Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên tha »…
Làm sao không cùng với Đức Maria và toàn dân ngài nói lên : « Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi ».
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng
Dr. Lương Hùynh Ngân chuyển ngữ
BÀI ĐỌC 1 Lễ Đức Mẹ Lên Trời (Kh 11,19a ;12,1-6a,10ab)
15 tháng 8 năm A-B-C.
“Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng“.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
11,19 Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ.
12,1 Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao.
2 Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con.
3 Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện.
4 Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.
5 Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người.
6a Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở,
10ab Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thời giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Ki-tô của Người.
Như chúng ta biết sách Khải Huyền hướng tới những Ki-tô hữu bị bách hại để nâng đỡ họ trong khi bị thử thách : nội dung từ đầu đến cuối là một sứ điệp vinh thắng. Nhưng tất cả là một điệp văn mã hoá, chúng ta phải giải mã. Trong thị kiến người phụ nữ và con mãng xà, cuộc chiến đang diễn ra, các thế lực của sự dữ được thể hiện bằng « con mãng xà lửa đỏ » được buông thả, hung dữ đến tận trời cao.
Nhưng ngay những chữ đầu, tác giả xác định ngay là nó sẽ không đánh bại được sự cứu độ của Thiên Chúa. Lý do là Hòm Bia Giao ước hiện ra trên trời. «11,19 Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ » Đối với dân Do Thái hòm bia Giao Uớc là một dấu chỉ thấy được của Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thế nhưng nó đã biến mất không ai biết vì sao, từ lúc lưu đày sang Ba-by-lon. Người ta nghĩ rằng tiên tri Giê-rê-mi-a đã giữ kỹ nó bằng cách đem đi giấu đâu đó trên núi Nê-bo (2Mcb 2,8). Mọi người thường tin rằng nó sẽ xuất hiện khi đấng Mê-si-a đến, thế nhưng hôm nay nó xuất hiện trên bầu trời, điều này ám chỉ cho chúng ta ngày cùng tận đã đến.
Thế rồi – vẫn luôn luôn trên trời hiện ra – « một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. 2 Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con ». Chúng ta tự hỏi người phụ nữ ấy là ai. Một lần nữa Cựu Ước cho chúng ta giải đáp, vì thông thường quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài chọn được miêu tả bằng một biểu tượng là một hôn lễ. Ví dụ như trong Hô-sê : « 21 Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương; 22 Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA » ( Hs 2, 21-22). I-sa-i-a triển khai đề tài hôn ước này đến nỗi giới thiệu đấng Mê-si-a đến như một cuộc sinh nở, vì It-ra-en phải sinh ra đấng Mê-si-a. «7 Trước thời chuyển dạ, nó đã sinh con, trước cơn đau, nó đã cho con trai chào đời. 8 Ai đã nghe một chuyện như thế? Ai đã thấy một điều như vậy? Có nước nào sinh ra nội một ngày? Có dân nào chào đời trong một lúc? Thế mà Xi-on vừa mới chuyển dạ đã sinh được đàn con » ( Is 66,7-8). Trong những câu này, người phụ nữ trong sách Khải Huyền chỉ dân Chúa chọn, sinh ra đấng Mê-si-a. Sự sinh nở, ôi biết bao là đau khổ, của các môn đệ Chúa Ki-tô bị bách hại, nhưng chính tác giả vừa nói : một nhân loại mới vừa được sinh ra.
Trong lúc này cuộc chiến vẫn tiếp diễn và vô cùng hung bạo đến nỗi cái đuôi con mãng xà : « quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất », có nghĩa là có phần nào chiến thắng. Nhưng nó không thể đi xa hơn. Nó toan làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa, vì thế, nó « đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà ». Cuộc sinh nở được xảy ra, đứa bé trai ấy chính là đấng Mê-si-a đã hứa, vì tác giả viết ra nguyên văn câu Thánh Vịnh 2 nói về đấng Mê-si-a :
«7 Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của CHÚA, Người phán bảo tôi rằng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
8 Con cứ xin, rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa.
9 Con sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành, nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm. » ( Tv2,7-9)
Danh từ mục tử cũng là một danh từ cổ điển để chỉ đấng mê-si-a.
Hình ảnh kế tiếp là cảnh đứa bé bị bắt đi khỏi « Thiên Chúa và triều thiên của Ngài » điều này tượng trưng sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô. Đối với những Ki-tô hữu thời ban đầu, đấng Mê-si-a được gọi là kẻ sơ sinh, là điều rõ ràng dễ hiểu đối với họ. Thế nhưng dân Ngài còn ở lại thế gian ; như Chúa Giê-su nói qua Tin Mừng theo thánh Gio-an «11Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha » (Ga 17,11). Sa mạc là một thế giới khó ở nhưng trong đó họ được Thiên Chúa che chở. Hỡi những kẻ có đức tin hãy vững tin vào sự che chở của Chúa. Con mãng xà đã thất bại trên trời thì không thể thành công dưới thế.
Sách Khải Huyền vừa loan báo sự chiến thắng vinh hiển cho những tín hữu sơ khai vừa mới sinh ra nhân loại mới trong đau khổ của các cuộc bách hại « Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Ki-tô của Người »
Phần bổ túc :
Về sau người Ki-tô có lúc áp dụng sự thị kiến này cho Đấng Trinh Nữ Maria, nhưng đó chắc chắn không phải ý định của tác giả. Phụng vụ đề nghị chúng ta đọc bài này ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời, vì Đức Mẹ được xem như người đầu tiên được hưởng chiến thắng của Đấng Ki-tô.
Dĩ nhiên chúng ta có thể so sánh cuộc chiến giữa con mãng xà với người phụ nữ trong sách sáng thế : «15 Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó » ( St 3,15)
***
THÁNH VỊNH Lễ ĐỨC MẸ Lên Trời (Tv 44 (45) 11-16)
15 tháng 8 A-B-C
“Hoàng Hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng”
11 Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào,
đưa mắt nhìn và hãy lắng tai,
quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ.
12 Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái,
hãy vào phục lạy: “Người là Chúa của bà.”
13 Thiếu nữ thành Tia mang lễ tới,
phú hào trong xứ đến cầu ân.
14 Đẹp lộng lẫy, này đây công chúa,
mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng,
15 phục sức huy hoàng, được dẫn tới Quân Vương,
cùng các trinh nữ theo sau hầu cận.
16 Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước,
vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung.
Đọc ở mức độ nghĩa đen, bài thánh vịnh này có vẻ miêu tả hôn lễ các quân vương: Vua It-ra-en kết hôn cùng một công chúa nước ngoài để thắt chặt giao ước giữa hai dân tộc. Chính thật, vị hoàng tử chàng rể của bài thánh vịnh này không ai khác là chính Thiên Chúa và «… này đây công chúa, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng » là dân tộc It-ra-en được nhận vào vòng mật thiết với Thiên Chúa.
Chính tiên tri Hô-sê là người đầu tiên so sánh dân tộc It-ra-en là cô dâu trong hôn lễ : «16 Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.17 Từ nơi đó, Ta sẽ trả lại vườn nho của nó, biến thung lũng A-kho thành cửa khẩu hy vọng. Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân, như ngày nó đi lên từ Ai-cập.18 Vào ngày đó – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi”, chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa » ( Hs 2,16…18). Kế tiếp Giê-rê-mi-a vè Ê-dê-ki-en là « I-sa-i-a thứ hai và thứ ba » cũng triển khai đề tài hôn lễ giữa Thiên Chúa và dân Ngài chọn. Chúng ta nhận ra nơi đây các ngôn từ của các nghi lễ đính hôn và lễ cưới : các danh từ dịu dàng trìu mến, y phục ngày cưới, vòng hoa nàng dâu, sự chung thuỷ. Ví dụ như trong (Gr 2,2) : « ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai gieo trồng » ;hay trong (Is 62,5) : « 5 Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ ».
Còn sách Diễm ca là một đàm thoại dài giữa hai tình nhân, viết thành bảy bài thơ. Không đâu xác định ai là hai tình nhân trong cuộc đối thoại ấy nhưng người Do Thái nhận ra đó là cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Bằng chứng là họ chọn để đọc đặc biệt trong nghi lễ ngày tưởng niệm cuộc Vượt Qua, ngày đại lễ của Giao ước giữa Thiên Chúa và It-ra-en.
Điều này nói lên cô dâu quá có tính thế gian thường hay bất trung (Thờ bụt thần) và các tiên tri kể trên xem như tội ngoại tình những bất trung của dân chúng, tức là khi quay về thờ phượng bụt thần. Lúc bấy giờ lại có những từ ngữ : ghen tương, ngoại tình, trở lại và tha thứ, vì Thiên Chúa lúc nào cũng trung tín. Ví dụ như I-sa-i-a nói về những cuộc đi lang thang khi thất tình. Đó là bài ca bất hủ gọi là « Bài ca vườn nho » ( Is 5,1…7) «1 Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình. Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. 2 Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho. Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. … 7 Vườn nho của ĐỨC CHÚA các đạo binh, chính là nhà Ít-ra-en đó; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy chính là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than » Còn tiên tri Hô-sê, nói tới việc tôn thờ bụt thần gọi It-ra-en là đàng đĩ điếm. Tuy nhiên dù sao đi nữa Thiên Chúa luôn hứa hoà giải : « 4 Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ, chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn. Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân và không còn nhớ bao nhục nhằn thời goá bụa…10 Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, ĐỨC CHÚA là Đấng thương xót ngươi phán như vậy. (Is 54, 4 ;10)
Bài thánh vịnh của chúng ta hôm nay cũng nói về ngày hôn lễ ấy, cô dâu nước ngoài (đến từ thành Tia) được đưa đến vương triều It-ra-en, và phải từ chối mọi bụt thần để xứng đáng với dân tộc mới này cùng vị vua bản xứ. «11 Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ ». Chúng ta biết đó là vấn đề thiết yếu của thời vua Sa-lô-mon, ông đã cưới những người nước ngoài, tức là ngoại đạo, về sau hoàng hậu Giê-da-ben thời tiên tri Ê-li-a cũng thế. Dĩ nhiên khi đọc kỹ những lời khuyên cho công chúa thành Tia, đó chính thật hàm ý hướng về dân It-ra-en luôn bị cám dỗ rơi vào nạn thờ phượng bụt thần. Tại sao thờ phượng bụt thần lại chen vào những viễn tượng điền viên êm ả ? Vì đây không phải hôn lễ thế gian, vì chính vì thế điều được hay mất rất quan trọng, It-ra-en biết rằng dân tộc họ được chọn không phải là duy nhất. Chỉ trong sự trung tín với Thiên Chúa thì dân tộc họ mới thật sự làm chứng tá cho muôn dân. Cuối cùng, thật vậy Thánh Kinh cho phép chúng ta dám nghĩ rằng Chúa đề nghị kết hôn với cả nhân loại. Nhưng làm sao nhân loại biết nếu không ai thông báo ?
Khi Giáo Hội Ki-tô mừng Lễ Đức Mẹ Lên Trời và tôn ngài vào vinh quang của Thiên Chúa, là đã thấy trước viễn ảnh tất cả nhân loại được đưa vào vòng thân mật với Thiên Chúa.
***
BÀI ĐỌC 2 Lễ ĐỨC MẸ Lên Trời ( 1Cr 15,20-27a) 15 tháng 8 năm A-B-C
“Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Chúa“.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
20 Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trổi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.
21 Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.
22 Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.
23 Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người.
24 Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.
25 Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.
26 Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết,
27 vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô.
Ngày chúng ta cử hành trọng thể mừng Đức Mẹ Lên Trời thì Giáo Hội đề nghị chúng ta trong Phụng vụ suy gẫm với thánh Phao-lô sự phục sinh của Chúa Ki-tô, đối chiếu với cái chết của A-đam. Từ đó chúng ta có vài dữ kiện để suy nghĩ : điều gì có chung cả Đức Mẹ và Chúa Ki-tô mà A-đam không có ?
Chính bài Phúc Âm hôm nay nói về cuộc Viếng Thăm bà Ê-li-sa-bét, giúp chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ, người có đức tin, bà Ê-li-sa bét nói : «45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em »( Lc1,45). Đức Mẹ đã tin, tức là chấp nhận, không cần hiểu hết những gì sẽ xảy ra, kết hiệp với công trình của Thiên Chúa về ngài. Câu trả lời của Đức Mẹ cho xứ thần là mẫu gương người tín hữu : «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói » ( Lc1,38). Thế nhưng, nhiều lần «một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà » (Lc2, 35), như ngôn sứ Si-mê-ôn đã tiên báo. Điều tóm lược tốt nhất thái độ của Đức Maria là câu : «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa» (Lc1,38b). Đức Maria đơn sơ chấp nhận đời sống của ngài để phục vụ công trình của Chúa, và trong bài Magnificat, ngài cho chúng ta biết những ưu tư thầm kín của ngài : Đức Maria tự phát, nhìn lại cuộc đời của mình dưới ánh sáng của công trình Thiên Chúa cho dân Ngài, « 55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời »(Lc1,55).
Luôn luôn trong Thánh Kinh, mọi người đều biết điều đòi hỏi chúng ta là phải sẵn sàng trả lời « lạy Chúa, con đây », Áp-ra-ham, Mô-sê, Sa-mui-en được Chúa gọi đều biết trả lời như thế. Nhờ thế công trình của Thiên Chúa có thể vượt qua một giai đoạn mới. Lần lượt đến Chúa Ki-tô cũng theo một hành trình ấy của người tín hữu, và Tân Ước lúc nào cũng cho chúng ta những tấm gương tương tự. Trong đoạn Chúa bị Cám Dỗ, Ngài là Người trả lời những quyến rũ của kẻ cám dỗ chỉ bằng những lời nói của đức tin. Sở dĩ Chúa dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha : « xin cho ý Cha được thực hiện », là vì đó là điều Ngài quan tâm nhất. Cũng như Ngài nói cho các Tông Đồ trong đoạn về người đàn bà xứ Sa-ma-ri : « Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người » (Ga 4,34). Trước khi chết, trong vườn cây dầu Ngài không đính chính lại: « Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha » ( Mt 26,39). Và khi tác giả sách Do Thái tóm lược cuộc đời Chúa Giê-su, người viết : « … khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói…Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài »(Dt 10,5…10) Sở dĩ Chúa luôn luôn vâng phục, bất cứ trong tình huống nào là vì Người luôn cậy trông. Từ Ngài chúng ta cũng có thể nói « Phúc cho ai tin …» Sự phục sinh của Chúa đến để chứng minh rằng con đường Ngài chọn, con đường của đức tin, chính là con đường của sự sống, mặc dù trong ấy có sự chết thể xác.
Thánh Phao-lô trong thư cho tín hữu thành Roma hay trong thư này cho tín hữu Cô-rin-tô, ngài không ngừng đối chiếu hai thái độ giữa Chúa Ki-tô và A-đam : A-đam là những gì trái ngược hẳn lại, đối với Cây Hằng Sống cũng như làm chủ các tạo vật. Ông ngờ vực, không tin vào lòng nhân từ của Chúa. Từ chối không tuân theo một lề luật nào của Chúa. Thánh Phao-lô không có ý định nói nếu ông A-đam không phạm tội thì sao, nhưng ngài muốn nhắc lại cho chúng ta chỉ có con đường đưa đến sự sống đó là đi vào niềm vui của Thiên Chúa. Từ ngày A-đam bắt đầu nghi ngờ Chúa, ngày ấy ông ta đã quay lưng lại với Cây Hằng Sống. Phải nói lên điều này trong thì hiện tại, vì đối với thánh Phao-lô, A-đam không phải một người của quá khứ, đó là một loại người. Các giáo trưởng Do Thái thường nói : « Mỗi người chúng ta là một A-đam ».
Nhờ thế chúng ta hiểu câu sau đây của thánh Phao-lô : « .22 Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống » (1Cr 15,22). Khi chúng ta sống như A-đam là chúng ta xa cách Chúa và chúng ta tự cắt lìa với sự sống mà Chúa muốn cho chúng ta sống dồi dào. Trái lại chọn con đường tin cậy như Chúa Ki-tô trong bất cứ tình huống nào, là bước thêm một bước gần đến sự sống thật. Như Chúa Giê-su nói trong Tin Mừng theo thánh Gio-an : «3 Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô ». (Ga17,3). Nhận biết theo Thánh Kinh là tin, yêu mến, cậy trông. Như thánh Phao-lô nói : « nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống » (1Cr 15,22), tức là ghép cùng với Ngài, bằng cách sống giống như Ngài.
Bà Ê-li-sa-bét nói về Đức Maria : «45 Em thật có phúc, vì đã tin » (Lc1,45a). Chúa Giê-su cũng áp dụng lời chúc phúc ấy cho những kẻ tin «”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành. »(Lc 8,21)
***
PHÚC ÂM Lễ ĐỨC MẸ Lên Trời ( Lc1, 39-56)
Alleluia, alleluia!
– Đức Maria được mời gọi lên trời; đạo binh các thiên thần mừng rỡ hân hoan. – Alleluia.
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ“.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.
40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.
41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,
42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.
43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?
44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.
45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat)
46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Chúng ta đang trong đoạn khởi đầu Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Có hai tường thuật về Truyền Tin : Da-ca-ri-a về Gio-an-Tẩy-Giả, kế tiếp là Đức Ma-ri-a về Chúa Giê-su. Và đoạn này chúng ta thường gọi là « Đức Ma-ri-a Viếng Thăm bà Ê-li-sa-bét ». Tất cả có vẻ như những truyện gia đình, nhưng xin đừng nhầm lẫn. Thực ra thánh Lu-ca viết một sáng tác có tính cách cực kỳ thần học. Chắc chắn phải nhấn mạnh tất cả ý nghĩa của câu trung tâm của bài : «… bà( Ê-li-sa-bét) được đầy tràn Thánh Thần 42 liền kêu lớn tiếng ». Điều này muốn nói rằng chính Chúa Thánh Thần nói để loan báo ngay từ đầu Phúc Âm, sau này sẽ là Tin Mừng cho cả sách thánh Lu-ca : Đấng vừa được thụ thai là «Thiên Chúa ».
Những lời nào Chúa Thánh Thần linh hứng cho bà Ê-li-sa-bét ? “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc ». Có nghĩa là Chúa hành động nơi em và bởi em và Thiên Chúa hành động nơi Con em và bởi Con em. Chúa Thánh Thần là đấng làm cho chúng ta khám phá ra trong đời sống chúng ta – và trong đời sống mọi người – dấu ấn của công trình Thiên Chúa.
Không phải thánh Lu-ca không biết câu « Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và con lòng bà gồm phúc lạ » là một câu lấy một phần từ Cựu Ước. Chính từ sách Giu-đít (Judith) (Jdt 13,18-19). Khi bà Judith từ trận chiến về, sau khi chém đầu tướng Hô-lô-phen (Holopherne) , bà được vua Ut-đi-gia-hu tiếp đón trong lều trại phe mình, ông nói « Bà có phúc hơn mọi người nữ và Thiên Chúa cũng được chúc phúc ». Đức Maria được sánh với Giu-đít và khi đọc song song hai câu ấy gợi ý cho chúng ta hai điều. Câu « bà có phúc lạ hơn mọi người nữ » có hàm ý bà là người chiến thắng và bảo toàn cho nhân loại vĩnh viễn chiến thắng sự dữ. Còn phần sau (với Giu-đít thì « Thiên Chúa cũng được chúc phúc » còn Đức Maria thì « Con lòng bà gồm phước lạ ») loan báo rằng « Con lòng bà chính là Thiên Chúa ». Hẳn bài tường thuật này của thánh Lu-ca không chỉ có tính cách giai thoại !
Nhân dịp này chúng ta không thể không ngạc nhiên khi so sánh lời nói mạnh mẽ của bà Ê-li-sa-bét và sự im lặng của ông Da-ca-ri-a ! Vì bà đầy Chúa Thánh Thần, còn ông Da-ca-ri-a không còn nói được vì sau khi sứ thần đến, ông nghi ngờ những lời tiên báo ông Gio-an Tẩy Giả sẽ được sinh ra.
Còn ông Gio-an Tẩy-giả cũng biểu lộ niềm vui : bà Ê-li-sa-bét nói : « con trong bụng đã nhảy lên vui sướng » vừa khi nghe tiếng của đức Maria. Cũng phải nói rằng chính ông Gio-an Tẩy-giả cũng đầy Thánh Thần Chúa, như sứ thần ông Da-ca-ri-a nói: « Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an.14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời….Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần » (Lc1,13…15)
Chúng ta hãy trở về với những lời của bà Ê-li-sa-bét : « 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? » Cũng thế, những lời này đem chúng ta trở về một giai đoạn của Cựu Ước : lúc Hòm Bia Giao Ước được rước về Giê-ru-sa-lem (2Sm 6, 2-11), lúc vua Đa-vít ngự trị trên Giê-ru-sa-lem, nay ngài có một ngôi đền xứng đáng với vua It-ra-en, ông có ý rước Hòm Bia Giao Ước lên thủ đô mới. Nhưng nơi ông lúc bấy giờ phân vân giữa lòng sốt sắng và sợ hãi. Lúc đầu có một lúc sốt sắng và vui trong lòng : «1 Vua Đa-vít lại quy tụ toàn thể tinh binh Ít-ra-en: ba mươi ngàn người.2 Từ Ba-a-lê Giu-đa, vua Đa-vít lên đường và cùng đi với toàn dân đang ở với vua, để đưa Hòm Bia Thiên Chúa từ đó lên, Hòm Bia mang danh ĐỨC CHÚA các đạo binh, Đấng ngự trên các thần hộ giá.3 Người ta đặt Hòm Bia Thiên Chúa lên một cỗ xe mới và mang đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi. Các con ông A-vi-na-đáp là Út-da và Ác-giô điều khiển cỗ xe mới.4 Họ đưa xe đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Hòm Bia Thiên Chúa, còn ông Ác-giô đi trước Hòm Bia.5 Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en vui đùa trước nhan ĐỨC CHÚA, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con, chũm choẹ, thanh la » (2Sm 1-5). Nhưng sau đó có một sự cố nhắc Đa-vít rằng không ai đương nhiên có thể làm như thế: người nào vô phận sự đặt tay lên Hòm Bia sẽ chết ngay.
Vì lẽ đó nỗi sợ hãi đã thắng nơi vua Đa-vít, ông nói : « “Hòm Bia ĐỨC CHÚA đến với tôi thế nào được? » (2Sm 6,9) Cuộc hành trình bắt buộc ngừng ở đấy : Đa-vít nghĩ rằng nên cẩn thận từ bỏ ý định đem Hòm Bia về, nên để lại nhà một người nọ tên Ô-vết Ê-đom và ở đó ba tháng, đem lại hạnh phúc cho nhà này. Bấy giờ Đa-vít an tâm : «12Người ta báo tin cho vua Đa-vít rằng :”Vì Hòm Bia Thiên Chúa, ĐỨC CHÚA đã giáng phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm cùng tất cả những gì thuộc về ông.”Vua Đa-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua Đa-vít, trong niềm hân hoan.13 Khi những người khiêng Hòm Bia của ĐỨC CHÚA đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo.14 Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan ĐỨC CHÚA.15 Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en rước Hòm Bia ĐỨC CHÚA lên giữa tiếng hò reo với tiếng tù và » ( 2Sm 6,12-14)
Chúng ta có thể nghĩ rằng thánh Lu-ca sung sướng gom hết những chi tiết trong bài tường thuật cuộc Viếng Thăm, những gì liên quan đến sự kiện rước Hòm Bia lên Giê-ru-sa-lem : hai hành trình của Hòm Bia và của đấng Ma-ri-a được diễn ra cùng một vùng địa lý : những ngọn đồi xứ Giu-đa; Hòm bia vào nhà của O-vết Ê-đom và đem lại cho nhà này hạnh phúc (2Sm 6,12), bà Ma-ri-a vào nhà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét và cũng mang lại hạnh phúc cho nhà này ; Hòm bia được đặt lại ba tháng, Đức Ma-ri-a cũng ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét ba tháng và sau cùng Đa-vít nhảy múa trước Hòm Bia (Sách thánh nói « vua Đa-vít nhảy múa quay cuồng trước nhan ĐỨC CHÚA » (2Sm6, 16)còn thánh Lu-ca ghi nhận rằng ông Gio-an Tẩy-giả : « trong bụng nhảy lên » khi vừa gặp đức Ma-ri-a đang cưu mang Hài Nhi.
Tất cả những điều này dĩ nhiên không có gì ngẫu nhiên, thánh Lu-ca cho chúng ta ngắm nhìn Đức Maria như Hòm Bia Giao Ước Mới. Chính thực ra Hòm Bia là nơi Chúa ngự. Đức Maria mang trong thân mình ngài một cách huyền bí sự hiện diện của Thiên Chúa. Qua Đức Mẹ Chúa ngự trong trần thế : « 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta » (Ga1,14). Tất cả nhờ đức tin của Mẹ Maria. Bà Ê-li-sa-bét nói «45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.» (Lc1,45)
Và để đáp lại những lời của bà Ê-li-sa-bét, Đức Maria cất tiếng hát bài Magnificat. Điều thật đáng ngạc nhiên về bài Magnificat này : tất cả các Thánh Kinh của chúng ta, tới trang này của Tin Mừng theo thánh Lu-ca, bên lề được chép thật nhiều ghi chú trong các sách khác của Thánh Kinh và chúng ta nhận ra nhiều đoạn ngắn Thánh Vịnh trong gần như mỗi câu của bài Magnificat. Điều này chứng minh rằng đấng Maria không bịa ra lời cầu nguyện của ngài. Để tỏ bày sự kinh ngạc thán phục của ngài trước kỳ công của Chúa, ngài chỉ có đơn sơ lấy lại những câu của tổ tiên, cha ông trong niềm tin.
Nơi đây chúng ta rút ra hai bài học. Trước tiên bài học khiêm nhường. Mặc dù đứng trước một trường hợp thật đặc biệt, Mẹ Maria một cách tự phát đơn sơ đọc lại những lời cầu nguyện của dân ngài. Kế đến là bài học về tinh thần cộng đồng (ngày nay ta gọi là nhận thức trực giác về Giáo Hội), vì không có một lời trích Thánh Kinh nào trong bài Magnificat có tính cách cá nhân. Luôn luôn có ý nghĩa cho cả toàn thể dân chúng. Đó là một đặc thái của lời cầu nguyện dân Do Thái : người tín hữu không bao giờ quên mình thuộc về dân tộc và mọi sứ vụ riêng mình không những không làm xa cộng đồng mà còn luôn để phục vụ cộng đồng dân tộc mình.
Vì thế chúng ta nhìn ra trong lời cầu nguyện của đấng Maria những đề tài quan trọng của Thánh Kinh. Tôi xin kể ít nữa bốn đề tài :
1/ Niềm vui đức tin
2/ Chúa tín trung với Giao Ước và những lời hứa của Ngài.
3/- Cảm tạ những kỳ công của Thiên Chúa.
4/-Thiên Chúa chuộng kẻ nghèo hèn và người thấp kém.
Trước hết niềm vui đức tin. « Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi ». Câu này gần như lời ứng đối với sách I-sa-i-a : «10 Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!» (Is 61,10). Đây là một bài từ I-sa-i-a thứ ba, tức là khoảng 500 trước CN. Và 100 năm về trước, khoảng 600 năm trước CN, sách Kha-ba-cúc cũng đã nói «18 Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì ĐỨC CHÚA, hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.» (Kc3,18). Trong các thánh vịnh cũng thế, có biết bao từ ngữ biểu hiện niềm vui sâu sắc của tín hữu. Ví dụ như: « 7 CHÚA là sức mạnh, là khiên mộc chở che tôi, lòng tôi đặt tin tưởng nơi Người. Tôi đã được Người thương trợ giúp, nên lòng tôi vui mừng hoan hỷ, cất cao tiếng hát tạ ơn Người. 8 CHÚA là sức mạnh cho dân Chúa, là thành trì cứu độ »(Tv 28,7-8); «4 Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA, ta đồng thanh tán tụng danh Người… 11 Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ, còn ai tìm kiếm CHÚA chẳng thiếu của gì » ( Tv34,4.11) ; « 9 Hồn tôi sẽ vui mừng trong CHÚA, hoan hỷ vì Người cứu thoát tôi.» (Tv 35,9) ; và bà Lê-a vợ ông Gia-cóp cũng đã nói lúc sinh đứa con thứ hai :“Tôi hạnh phúc biết bao! Vì các cô gái sẽ khen ngợi tôi có phúc » ( St 30,13) .
Điều thứ hai : Chúa tín trung với Giao Ước và những lời hứa của Ngài. «8 Nhưng phần ngươi, hỡi Ít-ra-en, tôi tớ của Ta, hỡi Gia-cóp, kẻ Ta tuyển chọn, dòng dõi Áp-ra-ham, bạn của Ta, 9 Ta đã nắm chặt lấy ngươi, đưa ngươi về từ tận cùng cõi đất, kêu gọi ngươi từ những miền xa thẳm. Ta đã nói với ngươi: “Ngươi là tôi tớ Ta, Ta đã chọn ngươi, Ta đâu ruồng bỏ » (Is 41, 8-9) ; «20 Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín cho Gia-cóp, và tình thương cho Áp-ra-ham, như đã thề với tổ phụ chúng con từ thuở trước » (Mk 7,20) ; « 6 Lạy CHÚA, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời » (Tv 25,6) ; «8 Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở, vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn. Con lâm cảnh ngặt nghèo, Ngài lo lắng chăm nom » (Tv 31,8) ; «3 Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta » (Tv98,3) ; «5 Bởi vì CHÚA nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín » (Tv100,5); «17 Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại, dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn. Người xử công minh cả với đời con cháu,18 cả những ai giữ giao ước của Người và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.(Tv103,17-18).
Điều thứ ba, Cảm tạ những kỳ công của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng đó là một trong những đề tài thiết yếu trong Thánh Kinh.Và khi chúng ta nói công trình của Thiên Chúa, ấy là đề tài duy nhất của Thánh Kinh, đó là công trình vĩ đại của Thiên Chúa, công trình giải thoát nhân loại.Ví dụ như trong Thánh Vịnh (67,4-5) : « 4 Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! 5 Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ » ; Hay là :« 21 chính Người là Đấng anh (em) phải ca tụng; chính Người là Thiên Chúa của anh (em), Đấng đã làm cho anh (em) những điều lớn lao và khủng khiếp mà chính mắt anh (em) đã thấy đó » ( Đnl10,21) ; «19 Lạy Thiên Chúa, đức chính trực của Ngài cao vời vợi, Ngài đã làm những việc lớn lao, lạy Thiên Chúa, nào ai sánh tày!»(Tv 71,19) ; «9 Người đem lại cho dân ơn giải thoát, thiết lập giao ước đến muôn đời. Tôn danh Người thánh thiêng khả uý » (Tv111,9) .
Điều thứ tư : Thiên Chúa chuộng kẻ nghèo hèn và người thấp kém. Chúa luôn luôn bênh vực và tái lập phẩm giá cho họ : «1 Bà An-na cầu nguyện và nói: “Tâm hồn con hoan hỷ vì ĐỨC CHÚA, nhờ ĐỨC CHÚA, con ngẩng đầu hiên ngang. Con mở miệng nhạo báng quân thù: Vâng, con vui sướng vì được Ngài cứu độ…
7 ĐỨC CHÚA bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao.
8 Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng. Vì nền móng địa cầu là của ĐỨC CHÚA, Người đặt cả hoàn vũ lên trên » ( 1Sm2, 1.7.8.)
Hay trong (Tv113,7) : «7 Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro » ;
(Is 57,15) « 15 Bởi vì Đấng muôn trùng cao cả, Đấng ngự chốn vĩnh hằng, Đấng mang danh chí thánh, Người phán như sau: Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát »
( Hc 10,14) «14 Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên tha »…
Làm sao không cùng với Đức Maria và toàn dân ngài nói lên : « Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi ».
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng
Views: 0