Trần Mỹ Duyệt chuyển ngữ
Sưu tầm của Đức Ông Charles M. Mangan
Lịch sử Giáo Hội đã trải qua hơn 2000 năm. Rất nhiều thánh nhân đã bày tỏ lòng yêu mến Đức Trinh Nữ Maria. Sau đây chỉ là một số những câu nói lừng danh của một số vị thánh có lòng yêu mến Đức Mẹ đặc biệt. Niên hiệu các vị qua đời được để trong, ngoặc đơn. Chúng ta sẽ thấy những vị từ xa xưa nhất đến những vị gần gũi với chúng ta nhất. Tất cả như những lời ca tiếp nối qua muôn thế hệ ca ngợi Mẹ như Mẹ đã tiên tri trước khi gặp chị họ Isave: “Từ nay muôn đời sẽ ngợi khen tôi có phúc”.
Chúng ta hãy noi gương các thánh yêu mến, và tin cậy nơi Đức Mẹ. Vì Mẹ là đường đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu (per Mariam ad Jesum), là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và là hạnh phúc muôn đời của chúng ta trên thiên quốc.
“When the fullness of time came, God sent forth His Son, born of a woman…” (Gal 4:4) St. Paul (about 67).
“Khi đến thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài, sinh bởi một người nữ….” Thánh Phaolô Tông Đồ, khoảng năm 67.
“He who is devout to the Virgin Mother will certainly never be lost”. St. Ignatius of Antioch (107).
“Ai có lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria sẽ không bao giờ bị hư mất.” Thánh Inhaxiô thành Antioch, năm 107.
“You, O great Mother, are the beginning, the middle and the end of our happiness.” St. Methodius of Olympus (about 311).
“Ôi Mẹ cao sang, Mẹ là khởi đầu, là trung điểm và cùng đích hạnh phúc của chúng con.” Thánh Methodius thành Olympus, khoảng năm 311.
“God has ordained that she should assist us in everything.” (St. Basil the Great (379).
“Thiên Chúa đã truyền cho Mẹ trợ giúp chúng ta trong mọi sự.” Thánh Basiliô Cả, năm 379.
“By her we obtain the pardon of our sins.” (St. John Chrysostom (379).
“Qua Mẹ, chúng ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi của chúng ta.” Thánh Gioan Chrisôtô, năm 379.
“There is nothing by which we can with greater certainly gain the affection of Mary than by charity toward our neighbor.” St. Gregory of Nazianzen(390).
“Không gì chúng ta có thể nhận được tình thương lớn lao hơn của Mẹ Maria cho bằng đức bác ái đối với cận thân của chúng ta.” Thánh Gregôriô thành Nazianzen, năm 390.
“Let the life of the blessed Mary be ever present to you, in which, as in a mirror, the beauty of chastity and form of virtue shine forth.” (St. Ambrose (397).
“Nguyện cho đời sống Đức Maria luôn luôn hiện diện đối với chúng ta, ở đó, như một tấm gương, chiếu tỏa vẻ đẹp trinh khiết và nhân đức.” Thánh Abrôsiô năm 397.
“Mary not only comes to us when called, but even spontaneously advances to meet us.” St. Jerome (420).
“Mẹ Maria không chỉ đến với chúng ta khi chúng ta kêu cầu Mẹ, nhưng ngay cả một cách tự nguyện, Mẹ đi trước để gặp gỡ chúng ta.” Thánh Giêrônimô năm 420.
“Mary is the Queen of the True Faith.” St. Cyril of Alexandira (414).
“Maria là Nữ Vương của Đức Tin Chân Thật.” Thánh Cyriô thành Alexandira, năm 414.
“Sinners receive pardon by the intercession of Mary alone.” St. Peter Chrysologus (about 450).
“Những tội nhân nhận được ơn tha thứ chính là nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.” Thánh Phêrô Chrisotlôgô, khoảng năm 450.
“Mary is so endured with feelings of compassion, that she not only deserves to be called merciful, but even mercy itself.” St. Leo the Great (461).
“Đức Maria quá đỗi khoan dung với những rung cảm của lòng thương xót, đến nỗi Mẹ không chỉ xứng đáng được gọi là xót thương, mà chính là sự thương xót.” Thánh Lêo Cả, năm 461.
“She is the ladder of Heaven; for by Mary God descended from Heaven into the world, that by her men might ascend from earth to Heaven.” St. Fulgentius (533).
“Mẹ là chiếc thang bác lên Trời; nhờ Đức Maria, Thiên Chúa đã từ Trời xuống thế gian, để cũng nhờ Mẹ, loài người từ đất lên tới Trời.” Thánh Fulgentius năm 533.
“Mary, by how much she is higher and holier than we are, is more clement and compassionate to converted sinners.” St. Gregory the Great (604).
“Đức Maria thánh đức và cao cả hơn chúng ta bao nhiêu, cũng khoan dung và xót thương hơn bấy nhiêu đối với các hối nhân.” Thánh Grêgôriô Cả, năm 604.
“She is a boundless ocean, an unfathomable sea, a profound abyss of grace.” St. Sophronius (about 640).
“Mẹ là đại dương không bến bờ, một biển sâu khôn dò, một vực thẳm sâu của ân sủng.” Thánh Sophronius, khoảng năm 640.
“In order to be a devoted servant of the Father, I faithfully desire to be the servant of the Mother.” St. Ildephonsus (667).
“Để trở thành người tôi trung tận tình của Chúa Cha, tôi thành khẩn ao ước được trở thành người tôi trung của Đức Mẹ.” Thánh Ildephosus, năm 667.
“God excepted, she is higher than all.” St. Andrew of Crete (720).
“Thiên Chúa đã cho Mẹ được nên cao cả hơn mọi loài.” Thánh Andrê thành Crete, năm 720.
“May your name, O Mother of God, be the last sound that escapes my lips.” St. Germanus of Constantinope (about 732).
“Chớ gì tên Mẹ, Ôi Mẹ Thiên Chúa, là âm thanh sau cùng thoát ra từ đôi môi con.” Thánh Germanus thành Constantinope, khoảng năm 732).
“Mary stands before her Son, unceasingly praying for sinners.” St. Bede the Venerable (735).
“Mẹ Maria đứng trước Con mẹ, và không ngừng cầu bầu cho các tội nhân.” Thánh Bede the Venerable, năm 735.
“O Mother of God, if I place my confidence in you, I shall be saved.” St. John Damascene (about 749).
“Ôi Mẹ Thiên Chúa, nếu con đặt niềm cây trông của con nơi Mẹ, con sẽ được cứu rỗi.” Thánh Gioan Đamianô, khoảng năm 749.
“The greatest glory of the blessed in Heaven is, after seeing God, the presence of this most beautiful Queen.” St. Peter Damian (1072).
“Vinh quang cao cả nhất của các thánh trên Thiên Quốc, là sau khi chiêm ngắm Thiên Chúa, là sự hiện diện tuyệt vời của Đức Nữ Vương.” Thánh Phêrô Đamianô, năm 1072.
“Mary is the Mother of all graces.” St. Anselm (1109).
“Đức Maria là Mẹ của muôn ân phúc.” Thánh Ansenmô, năm 1109.
“By you we have access to the Son, O blessed finder of grace, bearer of life and Mother of salvation, that we may receive Him by you, Who through you was given to us.” St. Bernard of Clairvaux (1153).
“Nhờ Mẹ chúng con đến với Chúa Con. Ôi Đấng kiếm tìm ân sủng được chúc phúc, đấng cưu mang sự sống và là Mẹ của ơn cứu độ, nhờ Mẹ mà chúng con đón nhận Ngài, Đấng qua Mẹ đã được ban cho chúng con.” Thánh Bênađô thành Clairvaux, năm 1153.
“Hail, God’s Place; Hail, Tabernacle of the Most High; Hail, His Holy Vestments; Hail, Handmaid of God.” St. Francis of Assisi (1226).
“Kính chào Thánh Đô Thiên Chúa. Kính chào Nhà Tạm Đấng Tối Cao. Kính chào Phẩm Phục Thánh của Ngài. Kính chào Nữ Tỳ Thiên Chúa.” Thánh Phanxicô Khó Khăn, năm 1226.
“O Name of Mary! Joy in the heart, honey in the mouth, melody to the ear of her devout clients.” St. Anthony of Padua (1231).
“Ôi thánh danh Maria! Hoan lạc của trái tim, mật ngọt của bờ môi, khúc nhạc êm dịu của những ai yêu mến Mẹ.” Thánh Antôn thành Padua, năm 1231.
“As the other planets are illumined by the sun, so do all the Elect receive light and increase of happiness from the sight of Mary.” St. Bonaventure (1274).
“Như các hành tinh được chiếu sáng bởi mặt trời, cũng vậy những Kẻ Được Tuyển Chọn lãnh nhận ánh sáng và tăng thêm hạnh phúc từ ánh nhìn của Mẹ Maria.” Thánh Bonaventura, năm 1274.
“Through Mary’s intercession, many souls are in Paradise who would not be there had she not interceded for them, for God has entrusted her with the keys and treasures of the heavenly Kingdom.” St. Thomas Aquinas (1274).
“Qua lời chuyển cầu của Đức Maria, nhiều linh hồn trên Thiên Đàng giờ đây đã không được ở đó nếu Mẹ không cầu xin cho họ, bởi vì Thiên Chúa đã tin tưởng trao phó chìa khóa và kho tàng Nước Trời cho Mẹ.” Thánh Thomas Aquinô, năm 1274.
“Mary could not have been more closely united to God than she was without becoming God.” St. Albert the Great (1280).
“Đức Maria đã không thể kết hợp mật thiết với Thiên Chúa hơn được nữa, nếu không Mẹ đã trở thành Thiên Chúa.” Thánh Anbêtô Cả, năm 1280.
“O Holy Mary, paradise of sanctity, lily of purity, be my guide and the defender of my chastity: for in you shines every grace of life and truth.” St. Gertrude the Great (1301).
“Ôi Maria Chí Thánh, địa đàng của thánh thiện, bông huệ trinh trong, xin hãy hướng dẫn và bảo vệ đức trinh khiết của con: vì Mẹ chiếu sáng mọi nhân đức của đời sống và sự thật.” Thánh Gêtruđê Cả, năm 1301.
“She is the Dispenser of Divine Mercy.” St. Catherine of Siena (1380).
“Mẹ là Đấng Ban Phát Lòng Thương Xót Chúa.” Thánh Tiến Sĩ Catharine thành Siena, năm 1380.
“Not only does the most Blessed Virgin console and refresh them, but she receives the souls of the dying.” St. Vincent Ferrer (1418).
“Đức Thánh Trinh Nữ không chỉ an ủi và khích lệ họ, nhưng người còn đón nhận những linh hồn đang hấp hối.” Thánh Vincetê Ferrer, năm 1418.
“At the same moment when Mary consented to become the Mother of God, she also consented to become the Mother of all the children of salvation, and bore them already at the time beneath her Heart.” St. Bernadine of Siena (1444).
“Cùng lúc khi Maria ưng thuận làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ cũng ưng thuận trở nên Mẹ của tất cả các con cái sự cứu rỗi, và đã sinh họ ra trong Trái Tim của Mẹ.” Thánh Bernadine thành Siena, năm 1444.
“It is impossible that a Mother of God should pray in vain”. St. Antonius (1459).
“Không thể nào lời cầu xin của Mẹ Thiên Chúa lại không có hiệu quả.” Thánh Antoniô, năm 1459.
“You are our only refuge, help and asylum.” St. Thomas of Villanova (1555).
“Mẹ là chốn náu thân duy nhất, nguồn trợ giúp và nơi nương ẩn của chúng con.” Thánh Thomas thành Villanova, năm 1555.
“How can I help loving her, if she is my Mother.” St. Stanislaus Kostka (1568).
“Làm sao tôi có thể giúp để yêu mến người, nếu người là Mẹ của tôi.” Thánh Stanislaus Kostka, năm 1568.
“I was left with a longing to serve Our Lady since she deserved this so much.” St. Teresa of Avila (1582).
“Tôi được dành riêng với lòng khát khao phục vụ Đức Mẹ, vì người quá xứng đáng với niềm khát khao này.” Thánh Tiến Sĩ Têrêsa thành Avila, năm 1582.
“You will do well in having special resource to the glorious Virgin Mary, for she is the one among all pure creatures who most signaled herself in the virtue of humility.” St. Aloysius Gonzaga (1591).
“Chúng ta sẽ làm tốt khi có phương thức đặc biệt đối với Đức Trinh Nữ Maria vinh hiển, vì Mẹ là một trong những tạo vật tinh tuyền, đấng báo hiệu chính mình trong nhân đức của khiêm nhường.” Thánh Aloysius Gonzaga, năm 1591.
“My children, if you desire perseverance, be devout to Our Blessed Lady.” St. Philip Neri (1595).
“Hỡi các con, nếu các con khao khát ơn bền đỗ, hãy sốt sắng yêu mến với Đức Mẹ.” Thánh Philiphê Nêri, năm 1595.
“God wants everyone, everyone to learn this truth from childhood on: that he who trust in Mary, that he who relies on Mary will never be abandoned either in this world or in the next.” St. Laurence of Brindisi (1619).
“Thiên Chúa muốn mọi người, tất cả học biết sự thật này từ lúc còn thơ trẻ: đó là ai tin tưởng nơi Mẹ Maria, rằng ai cậy trông nơi Mẹ Maria sẽ không bị từ bỏ dù ở đời này hoặc đời sau.” Thánh Lôrensô thành Brindisi năm 1619.
“Whoever loves Mary will have perseverance.” St. John Berchmans (1621).
“Ai có lòng yêu mến Mẹ Maria sẽ được ơn bền đỗ.” Thánh Gioan Berchmans, năm 1621.
“His Divine Goodness never has given and never will give any grace to anybody but through the hands and the Heart of her who is the Treasurer and Almoner of all His gifts.” St. John Eudes (1680).
“Thiên Chúa Tốt Lành Thánh Thiện không bao giờ ban phát và cũng sẽ không bao giờ ban bất cứ ơn nào cho bất cứ ai, ngoại trừ qua bàn tay và Trái Tim của Người Chủ Kho và Người Quản Gia của tất cả mọi ơn lành của Ngài.” Thánh Gioan Eudes, năm 1680.
“Happy, a thousand times happy, is the soul here below to which the Holy Spirit reveals the Secret of Mary in order that it may come to know her.”St. Louis Mary Grignion de Montfort (1716).
“Hạnh phúc thay. Một ngàn lần hạnh phúc, linh hồn ở dưới đất này được Chúa Thánh Thần mạc khải cho về mầu nhiệm của Đức Maria để có thể biết về người.” Thánh Louis Maria Grignion de Montfort, năm 1716.
“Accept me, O Mary, for yours own, and as yours, take care charge of my salvation.” St. Alphonsus Mary Liguori (1787).
“Xin hãy nhận con. Ôi Maria như của riêng Mẹ, và cho Mẹ, xin hãy chăm lo phần rỗi của con.” Thánh Tiến Sĩ Anphongsô, năm 1787.
“O Mary, I want to be always your child.” St. Dominic Savio (1857).
“Ôi Maria, con muốn luôn luôn được làm con Mẹ.” Thánh Đaminh Saviô, năm 1857.
“The Heart of this good Mother is all love and mercy. She describes only to see us happy. We have only to turn to her to be heard.” St. John Baptist Mary Vianney (1859).
“Trái Tim của người Mẹ hiền này là tất cả tình yêu và thương xót. Mẹ chỉ ước mong nhìn thấy chúng ta hạnh phúc. Chúng ta chỉ cần quay về với Mẹ để được người lắng nghe.” Thánh Gioan Vianney, năm 1859.
“Those who would know the intimate secrets of Divine Love and the hidden virtues of Jesus’ Divinity, must study them in the transparent mirror of the Immaculate Heart of Mary.” St. Peter Julian Eymard (1868).
“Những ai muốn hiểu những bí mật thẩm sâu của Tình Yêu Thiên Chúa và những nhân đức được dấu ẩn trong Thần Tính của Chúa Giêsu, phải học chúng qua tấm gương phản chiếu là Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria.” Thánh Peter Julian Eymard, năm 1868.
“No shepherdess has as much care of her sheep as does Most Holy Mary of the souls entrusted to her care.” St. Anthony Mary Claret (1870).
“Không có người chăn chiên nào săn sóc đoàn chiênn mình như Thánh Nữ Rất Thánh Maria đối với những linh hồn đã được trao phó cho Mẹ săn sóc.” Thánh Anthony Mary Claret, năm 1870.
“Devotion to Mary is one of the safest means to obtain the grace of a holy death.” St. John Bosco (1888).
“Sùng kính Mẹ Maria là phương thế an toàn nhất để được ơn chết lành.” Thánh Gioan Bosco, năm 1888.
“We know every well that the Blessed Virgin is Queen of Heaven and earth, but she is more Mother than Queen.” St. Thérèsa of the Child Jesus and the Holy Face (1897).
“Chúng ta biết rất rõ ràng rằng Đức Trinh Nữ là Nữ Vương trời đất, nhưng Mẹ là người mẹ hơn là Nữ Vương.” Thánh Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan, năm 1897.
“You see me weak? You will have mercy on my weakness. You see me poor in virtue? You will help me. O my Mother, do not forsake me! My dearest Mother, do not abandon me!” St. Gemma Galgani (1903).
“Mẹ thấy con yếu đuối? Xin Mẹ hãy thưỡng xót sự yếu đuối của con. Mẹ thấy con kém cỏi trong đàng nhân đức? Xin hãy giúp con. Ôi Mẹ của con, xin đừng chê bỏ con! Lạy Mẹ rất mến thương, xin đừng bỏ rơi con.” Thánh Gemma Galgani, năm 1903.
“Christ manifested His own shinning love, His Heart inflamed with love for souls, a love that compelled Him to ascend the cross, to remain with us in the Eucharist, to enter our souls and to leave us in testament His own Mother as our Mother.” St. Maximilian Mary Kolbe (1941).
“Chúa Cứu Thế đã quang chiếu tình yêu của Ngài, Trái Tim bị tình yêu các linh hồn nung nấu, tình yêu đã thôi thúc Ngài bước lên thập giá, lưu lại trong Thánh Thể với chúng ta, ngự vào linh hồn chúng ta và trối lại Mẹ của Ngài để là Mẹ của chúng ta.” Thánh Maximilian Kolbe, năm 1941.
“Totus. Tuus”. St. Pope John Paul II, 2005.
“Tất cả của con là của Mẹ.” Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, năm 2005.
Trích trong MARIA, MẸ VIỆT NAM.
Views: 0