Phạm Văn Bản
Dương Vương muốn dựng Cổ Loa
Ước mong chống giặc Triệu Ðà xâm lăng
Nhưng thành luôn mất thăng bằng
Xây xong lại xập – bởi rằng yêu tinh
Vương liền cầu khẩn thần linh
Kim Quy – đế quốc nể tình giúp cho
Từ đây – thành ốc khỏi lo
Thần còn tặng móng – làm cò cung tên
Bắn ra một phát – sướng rên
Giết ngay vạn giặc lền khên ngoài thành
Triệu Ðà – mưu chước khôn ranh
Cầu hòa – xin tặng thêm cành thiên hương
Mỵ Châu Trọng Thủy – uyên ương
Thương chồng – nàng lộ hiến chương quốc phòng
Giúp chàng nội gián vào trong
Tráo ngay lãy nỏ – việc xong là về
Cùng cha – qua đánh nhạc thê
Cổ Loa thất thủ ê chề đắng cay
Vương cùng con gái cao bay
Ôm lưng tuấn mã mơ ngày thoát thân
Ngàn trùng đào tẩu tảo tần
Ðối phương lại cứ rần rần rượt theo
Vì nàng – lông ngỗng rắc gieo
Giúp chồng Trọng Thủy – bám đeo đuổi hoài!
“Triệu Đà Trọng Thủy” – cả hai
Biểu trưng “đế quốc” – chuỗi dài xâm lăng
Tiên Rồng – vì mất quân bằng
Bởi không “song hiệp” – gia tăng đối thù
Tích truyền lịch sử nghìn thu
Một lần duy nhất trùng tu vương thành
Tuyên xưng chống giặc đã đành
Nhưng vì thành ốc chỉ dành cho vua
Nguyên nhân công cuộc thắng thua
Tốn hao công quỹ – theo hùa ngọai bang
Chẳng màng cải tiến Nước – Làng
Đã không chăm sóc – lại càng hại dân
Rồi thành sập đổ nhiều lần
Sưu cao thuế nặng – muôn phần tốn hao
Bắt dân đắp lũy vét hào
Ruộng nương hoang phế – tăng cao đói nghèo
Tạo ra xã hội cheo leo
Lòng dân than oán – rắc gieo tương tàn
Người người cơ cực lầm than
Tham quan nhũng nhiễu lan tràn khắp nơi
Nước – Dân thành chuyện xa vời
Còn chi lý tưởng với lời nói suông
Tướng binh dù có bổng lương
Nhưng vì “hồn nước” đã ruồng bỏ đi
Dân thì “hồn giặc” ám ghi
Mong thay chế độ – thị phi bất cần
An Dương – lại sống xa dân
Chui vào ốc đảo – vinh thân lợi nhà
Kết bè – nhận giặc thông gia
Môn đăng hộ đối – để mà khinh dân
Hôn nhân đình đám rần rần
Xe bao trăm cỗ tỏ phần xa hoa
Tiệc tùng quà cáp lụa là
Vui trên xương máu nước nhà – mà thôi
Nỏ thần thành ốc – đủ rồi
Tăng tàu phi pháo – yên ngôi trị vì
Mặc dân – ai khổ can chi
Tin vào vũ khí – cậy vì đồng minh
Giặc kia – mà ngỡ thâm tình
Rước tên nội gían – rập rình săn tin
Còn đâu quân sự giữ gìn
Còn chi bảo mật – thiếu nhìn thanh tra
Việc công – vua đã lơ là
Quên lời Dựng Nước – để mà An Dân
Xa lìa truyền thống tiền nhân
Chạy theo Duy Lợi – vong thân cầu ngoài
Mộng mơ khoa bảng làm “tài”
Cam tâm nô lệ – Chẳng hòai “nước non”
Nuôi thân trả nợ chưa mòn
Sớm khuya hia mão bon chen việc làm
Lâu lâu có buổi họp quan
Vua ngồi vua phán – lam nham ích gì
Toàn dân – xa lánh khinh khi
Vua thời chờ phút sinh thì – mất ngôi
Việc vua việc nước – đơn côi
Một người con gái – thành đôi nghịch thù
Gả nàng – trao đổi – đền bù
Biến con thành giặc cho dù giữ ngai
Hỡi ơi! Tham lợi háo tài
Bán buôn máu huyết hình hài Tổ Tiên
Nhận làm phương tiện – ngang nhiên
Giúp cho giặc chiếm trọn miền quê hương
Ngây thơ chính trị – dẫn đường
Lộ điều bí mật – vì thương người chồng
Cướp xong vào buổi chiều đông
Anh chàng gián điệp – thong dong về nhà
Cùng cha – qua đánh nhạc gia
Phép công là trọng – lọ là niềm riêng
Đất bằng nổi sóng binh khiên
Dân cư tan tác – xóm giềng điêu linh
Dương Vương nay rõ sự tình
Nỏ thần hết nghiệm – tướng binh đầu hàng
Pháo phi thiết kỵ – mọi đàng
Lọt về tay giặc – phũ phàng – hận căm
Ba mươi tháng bốn bảy lăm
Mặc dân sống chết – vua nhằm thoát thân
Ẵm con – ôm bạc – nhanh chân
Tìm đường tỵ nạn – cầu ân xứ người
Nào đâu chẳng thấy tiếng cười
Con dân địch vận là người ngu ngơ
Lệnh truyền từ “cục e – rờ”
Áo choàng lông ngỗng – phất phơ chỉ đường
Chạy qua bao ải dặm trường
Địch quân sao mãi tinh tường rượt theo
An Dương lâm cảnh hiểm nghèo
Truy ra nguyên cớ – Giặc đèo sau lưng
Than ôi – nàng Mỵ – con cưng
Lông chim đã nhổ – biểu trưng Tiên tàn
Nhát gươm oan nghiệt – chém tan
Máu nàng – vung vãi lan tràn biển khơi
Đau thương khổ lụy chưa vơi
Chết theo vua chúa – chết đời nước dân
Triệu Đà chiến thắng khắp phần
Chủ trương vô sản – phi nhân phơi bày
Tòan dân cùng cực đọa đày
Người người căm phẫn – chờ ngày vùng lên
Giúp Dân Cứu Nước – xứng tên
Học bài Phù Đổng làm nền dựng xây
Mỵ Châu – dẫn chứng nơi đây
Trước là Hồn Nước – từ rầy chớ quên
Tổ là biểu tượng nói lên
Tiên Rồng Chánh Thuyết – dựng nên nước nhà
Tinh thần kết hiệp hài hòa
Tòan Dân Giữ Nước – chính là việc công
An Dương – phản bội Tổ Tông
Không cầu khấn Tổ – cậy trông người ngòai
Kim Quy – biểu tượng thần tài
Đại cuộc giữ nước – đã sai từ đầu
Hồn lìa trước – Nước mất sau
Nỗi đau mất nước – lụy sầu nhà tan
Nước Dân – Đời sống liên can
Mất theo Hồn Nước – lụi tàn Lòng Dân
Mất Dân – thì mất mọi phần
Kể chi thành ốc nỏ thần – thị uy
Cổ Loa – bài học dễ suy
Biểu trưng thành chết – xụp tùy thời gian
Lòng Dân – Sức Nước tương quan
Quốc phòng quân sự – bảo an nước nhà
Phải luôn cải tiến, kiểm tra
Là phần cơ mật – để mà phòng nguy
Tuyệt tin vũ khí Kim Quy
Dương Vương ỷ lại – tiện tùy ngủ quên
Say men chiến thắng – ngỡ bền
Quên điều cập nhật – sót tên bảo trì!
Nhận con rể giặc – làm gì
Rước vào cung cấm – còn chi quốc phòng
Dương Vương – dầu hưởng thong dong
Nhưng về tay giặc đã xong mọi phần
Chỉ chờ khi giặc xuất quân
Nhà tan nước mất – thóat thân chạy dài
Đồng minh – trở mặt ly khai
Quốc gia xụp đổ – như bài học trên
Tích truyền minh chứng – nói lên:
Phát huy truyền thống – giữ bền non sông
Sống theo Đạo Đức Tiên Rồng
Giúp Dân Giữ Nước – thành công sáng ngời
Hồn – Dân – Sức – Đất ai ơi
Giữ tòan vẹn bốn – Nước thời thịnh an
Mỗi khi nạn nước tràn lan
Giữ Hồn – Dân – Sức phá tan giặc thù
Hồn – Dân – mất Sức cho dù
Muốn mong quật khởi – cần cù có ngay
Mất Dân – Sức – Đất chờ ngày
Giữ Hồn tụ điểm – tỏ bày thành công
Mất Hồn – mọi sự tang bồng
Nước thành xác chết – đừng mong phục hòan
Mất Hồn – Dân mãi lo toan
Cũng thành công cụ – hòan tòan gây nguy
Mất Hồn – Dân – Sức ích chi
Thuộc về tay giặc – cũng tùy thời gian
Giữ – Hồn – Dân – Sức liên quan
Theo bài Phù Đổng – ta bàn sâu hơn
Mỵ Châu – phá họai giang sơn
Tội đền xử chém – làm ơn răn đời
Nước – Nàng không sống trọn lời
Tình Nhà chung thủy – đồng thời thưởng công
Tổ Tiên – phán xử minh thông
Tội làm mất nước – thương chồng mà ra
Máu nàng – được hóa ngọc ngà
Chính là Máu Đá – Tình Nhà thăng hoa
Ngọc trai nước giếng – tẩm hòa
Trở nên sáng đẹp – nhạt nhòa Thân Thương
Trầu Cau – tích dẫn tỏ tường
Thương nhau trọn vẹn – con đường quang vinh
Nước Nhà sống thực – trọn tình
Tiên Rồng Song Hiệp – chứng minh tuyệt vời
* *
Kính thưa quý vị và các ban,
Mỵ Châu là bài học Giữ Nước. Trong đại cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước là của toàn dân, bất cứ cơ cấu tổ chức chính trị độc tài chuyên chế nào cũng là phản dân hại nước và đắc tội với Tổ Tiên Dân Tộc.
Xây thành, lập đảng nhằm mang lại lợi ích dành cho giai cấp thống trị, có ích chi? Cậy chi vũ khí nỏ thần mà quên sức dân? Trông chi đồng minh Kim Quy mà lìa hồn nước?
Xây thành Cổ Loa làm cho dân đói khổ. Phung phí tài nguyên làm cho dân cùng cực. Tốn hao ngân sách làm cho nước kiệt quệ. Ỷ vào thành vững nỏ thần mà khinh dân, xa dân, bỏ dân để mặc tình chạy theo lợi ích ngoại bang.
Thành cao lũy tốt, khí giới hiện đại có ích chi khi chính người công dân cuối cùng là Công Chúa Mỵ Châu, con gái của mình còn đối nghịch, huống chi người ngoài? Vì từ khi gả nàng cho giặc, nàng thành người của giặc, thì nàng phài làm giặc. Không thể đổ thừa hay trách oán ai.
Việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa cách Hà Nội khoảng 15 cây số, và làm mất nước đã thành đề tài suy tư của bao thế hệ. Và với hơn bốn ngàn năm văn hiến, việc tích lũy truyền đạt kinh nghiệm An Dương Vương cho con cháu về công việc Giữ Nước. Tổ Tiên dùng câu chuyện thương tâm An Dương Vương và Mỵ Châu – Trọng Thủy là đề tài Mất Nước để dẫn chứng về bài học Giữ Nước: Giữ Hồn Nước, Giữ Dân Nước, Giữ Sức Nước và Giữ Đất Nước.
Dưới khía cạnh bài học Làm Người, truyền tích Mỵ Châu cũng nói lên diễn tiến của một người làm mất chính mình, mất đồng bào tính, mất Chánh Thuyết Tiên Rồng và khiến cho kẻ đó bị tha hóa, bị tuyên truyền, bị đầu độc bởi tà thuyết nhằm biến thành con người của Cá Nhân Vị Kỷ.
Chuyện kể rằng để chống quân Triệu Đà, An Dương Vương khởi công xây dựng Loa Thành. Đặc biệt trong suốt dòng lịch sử của dân tộc chưa bao giờ có việc xây thành kiên cố cho vua chúa trú ngụ. Các Vua Hùng luôn sống gần dân và cùng dân chia sẻ mọi trách nhiệm của định chế Làng Nước.
Việc xây Loa Thành đánh dấu quan niệm chống giặc giữ nước kiểu An Dương Vương. Quan niệm này đi ngược lại truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt, và xây thành trở nên việc làm xa lạ với nếp sống của toàn dân đương thời.
Ngoài ra sự kiện thành bị xụp đổ nhiều lần, đã chứng tỏ hoàn cảnh đất nước không đủ cung ứng cho việc xây thành. Chẳng những An Dương Vương lìa xa tinh thần dân tộc, mà còn lìa xa đời sống thực tế, thực thể, thực trạng hiện hữu của đất nước.
Khi thành bị xụp đổ, đáng lý An Dương Vương phải tìm hiểu, thay đổi kế hoạch mới để ứng hợp với hiện trạng nhằm vận dụng, xử dụng, tận dụng sức mạnh thiết thực của toàn dân. Nhưng ông lại trông cậy vào mưu lược tài trí của người lạ Thần Kim Qui. Như thế việc xây Loa Thành còn nói lên khuynh hướng sống vọng ngoại của An Dương Vương.
Theo Chánh Thuyết Tiên Rồng, việc lìa bỏ tinh thần dân tộc, Hồn Nước của An Dương Vương lại càng rõ rệt. Ở các truyền tích Tiết Liêu và Phù Đổng, khi cần An Dân và Cứu Nước, thì các Vua Hùng này khẩn Cầu Tổ về chỉ dạy. Nhưng ở đây, An Dương Vương không cầu Tổ, mà lại đi cầu đồng minh Kim Quy đến giúp xây đặc khu kinh tế giữ nước.
Chẳng những giúp xây được Loa Thành, Thần Kim Qui còn cho thêm một cái móng chân để làm lãy nỏ, bắn một phát giết vạn người và được gọi là nỏ thần.
Với thành vững, với vũ khí mạnh của cái nỏ thần thì các tài năng thiện nghệ của thanh niên Việt trở thành vô dụng. Các tài năng chất xám của thanh thiếu niên thời đại cũng không xử dụng, không nuôi dưỡng, không cần thiết trong công cuộc dựng nước và giữ nước của An Dương Vương. Có chăng một nhà độc tài chuyên chế?
Nhận Hồn Giặc. Đã xa nếp sống người dân, đã chỉ cậy nhờ người ngoài, An Dương Vương lại đem công chúa Mỵ Châu gả cho hoàng tử Trọng Thủy, con của của đối phương Triệu Đà.
Đang là một tên xâm lăng khiến cho An Dương Vương phải lo xây thành để chống cự, thì Trọng Thủy bỗng ngang nhiên bước vào tung hoành tới tận thâm cung bí sử của Loa Thành. Đang là một tên giặc nguy hiểm Trọng Thủy lại trở thành người đầu gối tay ấp của nàng tiên Mỵ Châu.
Như vậy, từ chỗ tùy thuộc vào người ngoài, An Dương Vương bước tới giai đoạn rước giặc vào nhà. Và tiên Mỵ Châu, biểu tượng cho tâm hồn Việt, cũng đã chấp nhận giặc, ôm ấp giặc, và trở thành người của giặc.
Cớ sự mất nước đã vậy, mà Mỵ Châu còn tiến thêm một bước, là nàng yêu và chiều Trọng Thủy đến nỗi đưa vũ khí tối mật của quốc gia là cái nỏ thần cho Trọng Thủy coi. Tuy không hoàn hảo, nhưng đất nước đang được tạm thời sống trong yên ổn nhờ có thành vững nỏ thần. Thế mà sau khi giúp cho giặc phá lũng thành, thì giờ đây Mỵ Châu còn làm theo ý giặc là trao cho Trọng Thủy xem cái nỏ thần, để rồi bị chàng đánh tráo cướp mất.
Mỵ Châu đã coi ý giặc hơn sự an toàn của dân nước. Nàng đã yêu qúy giặc hơn đồng bào mình, hơn quê hương mình. Vậy thì còn gì Nước, còn chi là Dân? Nhưng nàng vẫn cho là chưa đủ! Trên lưng ngựa cùng cha chạy trốn, Mỵ Châu còn nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc để ghi dấu cho Trọng Thủy tìm đường rượt theo.
Thực là chua chát. Nàng tiên Việt đã hoàn toàn quên mình vì giặc! Giờ đây, người nàng chỉ còn chiếc áo lông ngỗng, hình ảnh cuối cùng của Tiên, mà nàng cũng nhẫn tâm rứt bỏ để làm dấu dẫn đường cho giặc! Lông đã nhổ, lớp áo tiên mỏng manh bên ngoài cũng không còn, nên Mỵ Châu gục chết. Lâu nay, tuy tâm hồn đã đổi thay, nhưng nàng vẫn còn giữ và khoác chiếc áo Tiên. Giờ đây nàng lộ nguyên hình là giặc.
Mỵ Châu là Tiên, là biểu tượng cho tinh thần, cho ý thức văn hóa trong việc Giữ Nước. Nay đã mất Tiên. Mất theo nàng, theo An Dương Vương, là cả một đất nước và cả một dân tộc. Thật là chua chát đắng cay.
Diễn Tiến Mất Hồn Nước. Thế là An Dương Vương và Mỵ Châu đã làm cho Nước mất Nhà tan. Đó cũng chỉ vì “Rồng” An Dương Vương từ bỏ truyền thống, xa lìa hiện trạng dân nước đi cậy nhờ và lệ thuộc người ngoài. Và “Tiên” Mỵ Châu lại chấp nhận việc kết thân với giặc, rồi làm theo ý giặc, quên mình vì giặc, và chết cho giặc.
An Dương Vương và Mỵ Châu đã để Hồn Nước dần dần tiêu hao với những quyến rũ hào nhoáng của những lợi ích hời hợt. Khi nền tảng dân tộc bị phai lạt nơi bất cứ dạng thức nào của đời sống dân nước, thì tại phần đó, nước đã bắt đầu mất.
Dưới khía cạnh Con Người, đây cũng là diễn tiến Con Người đánh mất chính tâm hồn mình. Điều đáng sợ là diễn tiến rất tuần tự, nên nhiều khi mình đã đánh mất chính mình, đã trở thành giặc, đã làm hại mình, mà mình cũng không ngờ. Hồn Mất Trước, Nước Mất Sau.
Bài Học Dân Nước. Việc bỏ mất Hồn Nước luôn luôn kéo theo việc bỏ dân, làm mất dân. Khi giới quyền chức đã tin tưởng và ỷ lại vào người ngoài, thì người dân trong nước bị rẻ rúng khinh khi và bị coi là phương tiện để phục vụ quyền lợi riêng của nhóm người thống trị.
Sự kiện An Dương Vương quyết định xây thành đã tố cáo việc ông bỏ quên trách nhiệm chăm sóc đời sống cho toàn thể mọi người dân trong nước. Trước đây, mọi người đều là con dân, đều được ông chăm sóc. Nhưng từ nay, với quyết định xây thành của ông, những kẻ ở ngoài thành sẽ bị phó mặc cho bất trắc.
Thế mà thành lại hư sập nhiều lần. Gánh nặng lại đổ xuống trên người dân. Dân phải chịu sưu cao thuế nặng, mưa nắng dãi dầu, gia đình ly tán, vợ con nheo nhóc. Đã hết lo cho dân, An Dương Vương lại hành hạ dân, bắt dân phục vụ ông.
Khi xây xong thành, An Dương Vương đã thực sự sống xa cách dân. Trước kia, trong suốt mấy ngàn năm, các vua dân Việt đã không hề xây thành, mà luôn sống với dân, chia sẻ cuộc sống người dân. Nhưng nay, An Dương Vương rút mình vô trong vỏ ốc. Đối với ông, dân bây giờ chỉ còn có nghĩa là nhóm người đang lo phục dịch ông ở trong thành.
Thêm vào vòng thành vỏ ốc, chiếc nỏ thần của Kim Qui càng làm cho An Dương Vương xa dân hơn. Đã hết gần dân, giờ đây ông lại không cần dân. Một phát nỏ thần có thể giết hàng vạn quân giặc, nên sự góp sức của dân không cần thiết nữa. Trong việc giữ nước, người dân đã trở thành thừa thãi, thành người ngoại cuộc.
Chẳng những vậy, từ nay, ngoài đám phục dịch trong thành, toàn thể dân trong nước đều ở trong tầm sát hại của nỏ thần. An Dương Vương coi dân như giặc, và ông đã trở thành giặc bán nước giống như Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay.
Thành Giặc. Từ chỗ đối xử với dân như giặc, An Dương Vương đem Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy, hoàng tử của giặc. Với việc thông gia giữa hai dòng vua, An Dương Vương đã tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông muốn từ nay gia đình ông phải là dòng họ đặc biệt, không còn liên hệ với dân. Ông hoàn toàn tách rời dân, tách rời truyền thống văn hóa đặt nền tảng trên bài học: nàng công chúa lấy người không khố.
Thế là An Dương Vương đã rước giặc vào cung. Ông hủy bỏ công dụng của Loa Thành, và bỏ quên những người ở trong thành. Giờ đây ông chỉ còn biết có gia đình ông. Quanh ông chỉ còn có hai người: một là Mỵ Châu, hai là tên giặc nằm vùng Trọng Thủy. An Dương Vương chỉ còn Mỵ Châu là con, là dân, người dân cuối cùng. Vì vậy, ông giao cho Mỵ Châu trách nhiệm gìn giữ chiếc nỏ thần, báu vật bạo lực thần thánh của ông. Ông tập trung quyền lực vào gia đình, vào những người thân cận ông.
Với việc tập trung quyền lực, từ nay người dân trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng không đáy của nhóm quyền chức. Ai làm chủ nỏ thần, ai nắm giữ quyền lực, người đó có toàn quyền trên sinh mạng và tài sản của dân.
Vì vậy, Trọng Thủy đã dùng thủ đoạn đoạt cái lãy nỏ khỏi tay Mỵ Châu một cách dễ dàng. Sau đó nhóm đặc quyền tranh nhau xương máu của dân. Người dân trở thành mối lợi, món hàng, của bọn người chỉ còn biết tư lợi và quyền lực. Kết qủa của tranh chấp quyền lực là tai họa giáng xuống trên người dân. Ách thống trị theo chân Trọng Thủy và Triệu Đà trùm lên toàn thể dân nước.
Bài Học Dân Nước thực thấm thía. Bỏ trách nhiệm chăm sóc dân, hành hạ dân, xa lánh dân, coi dân như thù địch, để chỉ dựa vào thành lũy, vào nỏ thần, vào nhóm đặc quyền, vào bạo lực, thì rồi, việc giữ nước chỉ còn là những thủ đoạn tranh quyền đoạt lợi. Người dân trở thành mục tiêu cho bóc lột, cho bạo hành. Giữ nước trở thành cướp nước.
Giữ Nước Là Việc Của Toàn Dân. Dân không giữ nước thì giặc giữ! Không cho dân giữ nước là cướp nước.
Bài Học Sức Nước. Dưới khía cạnh Sức Nước, khi An Dương Vương từ bỏ truyền thống và xa lìa cuộc sống người dân, để quyết định xây thành, chính là lúc ông làm băng họai sức mạnh xã hội của nước. Việc xây thành làm hao tổn của cải, tài năng và nhân lực của nước. Vậy mà thành còn bị hư xụp đổ nhiều lần, nên sức mạnh kinh tế lại càng suy sụp thêm.
Khi sống trong thành, xa dân, không còn biết đến đời sống người dân, An Dương Vương bỏ mất sức mạnh chính trị. Khi được nỏ thần, khi không còn vận dụng sức dân, khi làm cho dân thấy mình trở thành người ngoại cuộc thừa thãi, chính là lúc An Dương Vương đánh mất sức mạnh tinh thần trong công cuộc Giữ Nước.
Làm mất dân, An Dương Vương đã bỏ mất những sức mạnh nền tảng của việc Giữ Nước. Nhưng ông cũng chưa thấy nguy cơ vì ông đặt trọn niềm tin vào Loa Thành và Nỏ Thần. Loa Thành bảo đảm thế thủ an toàn, và Nỏ Thần đang làm mọi người khiếp sợ. Loa Thành và Nỏ Thần là biểu trưng của sức mạnh quân sự, khả năng giữ nước cuối cùng của An Dương Vương.
Nhưng rồi ông thua kém trên mặt trận ngoại giao, khi bị rơi vào thủ đoạn của giặc. Sau khi hao tốn biết bao công qũy để xây thành ngăn giặc, ông lại long trọng rước giặc vào tận thâm cung. Chính ông đã loại bỏ công dụng của sức mạnh phòng thủ của ông.
Thành đã bị phá lũng, An Dương Vương chỉ còn chiếc Nỏ Thần. Nhưng ông lại bị thua ở mặt trận gián điệp. Trọng Thủy biến đã biến Mỵ Châu thành nội tuyến, và nàng đã tiết lộ bí mật quốc phòng. Khi để Trọng Thủy đánh tráo lãy nỏ, trao vũ khí giữ nước cuối cùng vào tay giặc, An Dương Vương đã để mất luôn sức mạnh kỹ thuật. Không Sức Mạnh Lấy Gì Giữ Nước?
Bài Học Đất Nước. Công cuộc giữ nước bộc lộ rõ ràng nhất trong việc bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Thế mà An Dương Vương dám bỏ mất dần. Trước kia, chưa xây Loa thành, An Dương Vương đã để tâm chăm sóc toàn thể đất nước.
Nhưng khi xây thành, ông chỉ còn giữ lại mảnh đất trong thành. Đối với ông, đất nước ta không còn trải rộng ra khắp bờ cõi, mà thu hẹp lại trong hào lũy. Ông chểnh mảng trong việc giữ nước, để chỉ chú tâm tới cái làng mà ông đang ở.
Thế nhưng, khi lo cưới chồng cho Mỵ Châu, rước tên giặc Trọng Thủy vào nội cung, An Dương Vương lại vì tình nhà mà hủy bỏ sự phòng thủ của thành. Ông chỉ còn thấy có cái nhà của ông.
Và rồi, khi để Mỵ Châu trao nỏ thần vào tay giặc, ông đã không giữ nổi mấy chục thước đất cuối cùng. An Dương Vương đã thực sự không còn đất sống.
Ảo Tưởng Giữ Nước. Thế là hết, An Dương Vương đã để mất Hồn Nước, để mất Dân Nước, để mất Sức Nước, và cũng đã mất Đất Nước. Tuy nhiên, ông vẫn không ngờ, ông vẫn tưởng ông đang giữ nước.
Thực vậy dầu Hồn Nước có mất, cũng chỉ có nghĩa là ông đã thực hiện quan niệm của riêng ông. Cho dù người Dân đã bị loại ra khỏi việc giữ nước, nhưng nhờ đó ông lại càng dễ thống trị hơn. Cho dù Trọng Thủy là con giặc, nhưng đã trở thành con ông. Cho dù Mỵ Châu nằm trong tay giặc, nhưng nàng vẫn còn mặc áo lông ngỗng. Cho dù giặc có tung hoành ở thâm cung, nhưng vòng thành bên ngoài vẫn kiên cố vô song. Và cho dù lẫy thần đã bị tráo, chiếc nỏ vẫn còn nguyên hình dạng cũ.
Tất cả đều cho An Dương Vương ảo tưởng là đất nước vẫn an toàn, là ông đang hoàn thành nhiệm vụ giữ nước một cách tuyệt hảo. Nhưng qủa thực, sở dĩ đất nước còn, và ông vẫn còn như đang giữ nước, không phải là vì ông phòng thủ hữu hiệu, mà vì giặc chưa xua quân tiến chiếm.
Vì vậy, khi Triệu Đà xua quân tới, An Dương Vương chỉ còn cách lên ngựa chạy trốn. Ông không còn gì. Tất cả đã bị giặc chiếm. Cả đứa con ngồi sau lưng cũng đã thuộc về giặc, cũng đã là giặc. Ôi dân tộc đồng bào! Ôi giang sơn gấm vóc!
Tuy rằng Chánh Thuyết Tiên Rồng đang liệt kê nhiều nhân vật góp phần làm mất nước, nhưng mọi nhân vật đều có thể quy về một mình An Dương Vương. Chính An Dương Vương đã lìa bỏ truyền thống dân tộc mà quyết định xây thành. Chính ông đã nhờ thần Kim Quy, đã xin nỏ thần. Chính ông đã hành hạ dân, đã từ khước dân. Ông cũng đã đón rước Trọng Thủy, đã đặt nỏ thần trong tay Trọng Thủy. Chính ông đã cho Triệu Đà mọi điều kiện để đặt ách nô lệ lên toàn dân.
Trong diễn tiến đó, chúng ta có thể thấy tất cả đều chỉ là những giai đoạn của con người An Dương Vương.
Từ chỗ là một người chăm lo cho cuộc sống an thịnh của dân nước, như Tiết Liêu, ông đã để tham vọng cho ông ảo tưởng ông là thần thánh. Qua việc ông cấu kết với thần Kim Quy, qua việc xây xong thành và làm chủ chiếc nỏ thần, ông muốn toàn dân suy phục ông như một vị thần. Ông đã bỏ nguyên tắc nền tảng đầu tiên của người làm việc nước, là phải xác tín Thân Phận Là Người của mình.
Từ chỗ coi mình là thần thánh, An Dương Vương khinh rẻ người dân, không còn nhớ tới điều kiện thứ hai của người làm việc nước, là mình đang Mang Nặng Trách Nhiệm. Ông dùng thành lũy để bảo vệ ông, và dùng nỏ thần để uy hiếp mọi người. Ông quyết tâm hưởng thụ, và bắt toàn dân phục vụ ông.
Thay vì cùng với toàn dân chia sẻ gánh nặng giữ nước, An Dương Vương chỉ còn chuyên dùng bạo lực của thành Ốc và nỏ thần.
Từ đó, ông tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông chọn một hoàng tử để làm phò mã, dầu đó là con của giặc. Ông còn tập trung quyền lực vào gia đình của riêng ông. Ông giao trọn việc giữ nước, giờ đây chỉ còn cái nỏ thần, vào tay đứa con gái ngờ nghệch của ông.
Từ đây, đối với ông, dân chỉ là một lũ nô lệ phải luôn luôn cúi đầu khuất phục. Thế là, đối với nước, đối với dân, ông không còn là người giữ nước, mà đã trở thành tên giặc cướp nước. Ông trở thành Triệu Đà.
Như vậy, làm vua, làm việc nước, nhiều khi còn có nghĩa là giặc nước. Người giữ nước tuyệt hảo là người cùng với toàn dân chia sẻ cuộc sống. Mọi người đều chung phần trách nhiệm giữ nước. Tuy ở tầm độ khác nhau, nhưng mọi chức vụ đều là trách nhiệm.
Nếp sống này đã được thể hiện trong nhiều giai đoạn của lịch sử Việt, và được kết tinh trong những truyền tích Tiết Liêu, Chữ Đồng, An Tiêm, và Vọng Phu. Là thời suy thoái khi An Dương Vương xây thành và đặt dân dưới sự kìm tỏa của nỏ thần. Đó là chế độ, dầu dưới bất cứ danh xưng cao quý nào, mà xây dựng trên võ lực, trên lý của kẻ mạnh, trên mạnh được yếu thua.
Khi An Dương Vương tiếp nhận hoàng tử ngoại bang và trao nỏ thần cho con gái, chính là lúc thành lập chế độ gồm giai cấp đặc quyền, nắm giữ mọi quyền hành, và hưởng thụ trên xương máu người dân. An Dương Vương thành Triệu Đà là hình thức lộ liễu nhất của thống trị, chuyên chế, đế quốc, thực dân, đảng trị, thủ đoạn, mị dân.
Yếu Tố Giữ Nước. Muốn giữ Nước thì phải giữ Hồn Nước, giữ Dân Nước, giữ Sức Nước, và giữ Đất Nước. Hồn nước được giữ bằng việc sống thực và phát huy truyền thống cao quý của dân tộc.
Dân Nước có được là nhờ chăm sóc đời sống người dân và để dân chia sẽ trách nhiệm giữ nước. Sức Nước mạnh được là nhờ các cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế, và tổ chức quân sự thích đáng và hữu hiệu. Đất nước chỉ còn, khi thực sự được các yếu tố trên bảo vệ một cách trọn vẹn.
Có được cả bốn, giữ được cả bốn, thì quê hương thanh bình thịnh vượng, đồng bào hạnh phúc yên vui.
Nếu mất Đất, vì quân xâm lăng tràn ngập, nhưng vẫn còn Hồn, còn Dân, còn Sức, thì ngày quật khởi ở trong tầm tay.
Nếu mất Đất, mất Sức, mà còn Dân, còn Hồn, thì lo gì không có ngày vùng dậy.
Nếu mất Đất, Sức tan và Dân bị phân tán, mà còn Hồn Nước, thì tuy cần thời gian, vẫn còn cơ hội có lại Dân, có lại Sức và có lại Đất.
Nếu mất Hồn Nước, dầu còn Đất, còn Sức, còn Dân, thì cũng đã khô cạn sức sống, cái xác không hồn, ma giặc sắp ám.
Nếu mất Hồn, mất Dân, thì Sức và Đất trở thành những khí cụ đầy bất trắc, cực kỳ nguy hiểm. Nếu mất Hồn, mất Dân, mất cả Sức, thì giang sơn gấm vóc của Tổ Tiên đang là miếng mồi ngon nằm bên miệng giặc.
Và nếu giặc đã ra tay, như thảm trạng quê hương đồng bào ta hiện nay, thì Tổ Tiên linh hiển hướng dẫn chúng ta tiến sang bài học cứu nước của truyền tích Phù Đổng trong Chánh Thuyết Tiên Rồng siêu việt.
Views: 0