Uncategorized

Mỹ vẫn che giấu lệnh hạ sát ông Diệm

Trong bài “The Assassination of Ngo Dinh Diem” (Vụ ám sát Ngô Đình Diệm) đăng trên Real Clear History ngày 2.11.2011, sử gia Peter Kross viết rằng ba tuần sau cái chết của ông Diệm và ông Nhu, Tổng Thống Kennedy bị ám sát tại Dallas ngày 22.11.1963.

Trong bài “The Assassination of Ngo Dinh Diem” (Vụ ám sát Ngô Đình Diệm) đăng trên Real Clear History ngày 2.11.2011, sử gia Peter Kross viết rằng ba tuần sau cái chết của ông Diệm và ông Nhu, Tổng Thống Kennedy bị ám sát tại Dallas ngày 22.11.1963. Mặc dầu đàng sau hậu trường, Hoa Kỳ dính líu đến cái chết của ông Diệm, nhưng Phúc Trình về Vụ Ám Sát kết luận: “Các chi tiết về cái chết của ông Diệm và ông Nhu không được biết. Không một chi tiết nào trong các nguồn được cung cấp cho thấy có sự dính líu trực tiếp hay gián tiếp của Hoa Kỳ.”[01]

Tuy nhiên, các tài liệu được tiết lộ sau này cho thấy có ba nhân vật quan trọng của chính phủ Hoa Kỳ lúc đó đã dính líu trực tiếp đến việc ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đó là Averell W. Harriman (1891 – 1986), Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách về chính trị; Henry Cabot Lodge (1902 – 1985), Đại Sứ Hoa Kỳ tại VNCH lúc đó và Lucien E. Conein (1919 – 1998), đặc vụ của CIA tại Việt Nam. Trong ba nhân vật này Harriman là người đóng vai trò chỉ đạo và quyết định. Tổng Thống Kennedy đã bị khủng hoảng sau khi được tin ông Diệm bị giết.

I.- VAI TRÒ CỦA HARRIMAN

Trong cuốn “The Secret History of the CIA”, Joseph J. Trento cho biết Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh cho ông William R. Corson, một nhân viên CIA cao cấp tại Sài Gòn năm 1963 điều tra xem việc gì đã xẩy ra và ai có trách nhiệm. Trả lời của ông Corson như sau:

“Mọi chỉ thị từ Averell Harriman… Các lệnh đưa đến cái chết của ông Diệm và bào đệ của ông ta phát xuất từ Harriman và được phụ tá quân sự của Henry Cabot Lodge thực hiện.”[02]

Phụ tá quân sự của Đại Sứ Henry Cabot Lodge được ông Corson nói ở đây không ai khác hơn là Trung Tá Lucien Conein.

Theo ông Corson, năm 1963, Harriman đã điều hành Việt Nam không cần hỏi ý kiến của Tổng Thống hay Tổng Trưởng Tư Pháp. Ông Corson cho biết Tổng Thống Kennedy bắt đầu nghi ngờ rằng không một ai trong toán an ninh quốc gia là trung thành. Ông nói:

“Kenny O’Donnell (người được Tổng Thống Kennedy chỉ định làm thư ký) tin rằng McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia, nhận lệnh từ Đại Sứ (?) Averell Harriman chứ không phải từ Tổng Thống. Kenndy đặc biệt lo lắng về việc Michael Forrestal, một người trẻ trong nhân viên Toà Bạch Ốc phụ trách về liên lạc giữa Việt Nam và Harriman.”

Trưởng Trạm CIA tại Saigon là “Jocko” Richardson được thay thế bằng một toán không tên (no-name team). Nhân vật chính là một sĩ quan của Đội Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Army), đó là John Michael Dunn, nhận mệnh lệnh không phải từ hệ cấp CIA thông thường mà từ Harriman và Forrestal.

Theo Corson, “John Michael Dunn được biết như là người tiếp xúc với những người âm mưu đảo chánh”, mặc dù vai trò của Dunn không bao giờ được công khai hoá trước công luận. Corson tin rằng Richardson bị cất chức để Dunn, một người được Đại Sứ Cabot Lodge chỉ định cho “các công tác đặc biệt” (special operations) có thể hành động không bị trở ngại.[03]

Đại Sứ Henry Cabot Lodge cho biết Giáo Sư Patrick J. Honey của Đại Học London đã giới thiệu cho ông một đại tá có nghị lực và thông minh khi đó đang làm việc tại sứ quán, đó là John M. Dunn.[04] Dunn được ông Lodge chọn như là cánh tay phải của ông ta tại Sài Gòn. Đại Tá Dunn được bổ nhiệm làm bí thư điều hành (executive secretary) của phái bộ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.

Cũng như Đại Sứ Lodge, Đại Tá Dunn có vai trò như là một sứ giả đặc biệt của Tổng Thống có sứ mạng giải quyết bế tắc giữa ông Diệm và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Đặc biệt, về sau Ngoại Trưởng Rusk đã ngầm đồng ý vai trò nổi bật của Đại Tá Dunn trong sứ quán tại Sài Gòn. Đại Sứ Lodge đã tạo cho Đại Tá Dunn một vị thế trong sứ quán với quyền lực trên cả phó trưởng phái bộ.[05]

Mặc dầu có sự xác nhận về vai trò đặc biệt của Đại Tá Dunn trong thời gian tiến hành cuộc đảo chánh, nhưng thật khó mà tìm ra được các hoạt động của ông liên quan đến cuộc đảo chánh, vì đây là những hoạt động hoàn toàn bí mật.

II.- VAI TRÒ CỦA ĐẠI SỨ CABOT LODGE

Trong cuốn hồi ký “The Storm Has Many Eyes” (Bảo Tố Có Nhiều Con Mắt), Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã tìm cách thanh minh cho trách nhiệm của mình đối với cái chết của ông Diệm và ông Nhu. Ông kể lại rằng một nhân viên tình báo cao cấp và hiểu biết rất rõ về Việt Nam đã nói với ông trước ngày ông đi Sài Gòn rằng “trừ khi họ rời đất nước của họ, không có một quyền lực nào trên trái đất có thể ngăn cản việc ám sát Thổng Thống Ngô Đình Diệm, người em của ông ta là ông Ngô Đình Nhu và người em dâu của ông ta là bà Nhu.” (unless they leave the country there is no power on the earth that can prevent the assassination of President Diem, of his brother Ngo Dinh Nhu, and of his sister-in-law Madam Nhu). Theo ông, sự tiên đoán này đã trở thành chính xác một cách bi thảm.[06]

Trên đây là tiền đề ông Lodge đưa ra để giải thích rằng cái chết của ông Diệm và ông Nhu là chuyện đương nhiên, không phải do trách nhiệm của ông.

Hôm 28.6.1964, khi ra phi trường Tân Sơn Nhứt để trở về Washington, Đại Sứ Lodge có nói với các ký giả: “Khi từ giả Việt Nam, tôi chỉ ân hận có một điều là không cứu sống được ông Diệm.” Đây chỉ là một cách nói đãi bôi. Sau khi ông Lodge qua đời năm 1985, Đại Tá Mike Dunn, Phụ Tá Đặc Biệt (Special Assistant) và là bạn thân của Đại Sứ Lodge đã tiết lộ một sự kiện quan trọng trong một cuộc phỏng vấn:

Sau khi đầu hàng, ông Diệm có gọi điện thoại cho ông Lodge một lần nữa vào lúc 7 giờ sáng ngày 2.11.1963 trước khi ông bị bắt và bị hạ sát. Ông Diệm xin ông Lodge giúp đỡ trong giờ cuối cùng của ông ta, ông Lodge bảo ông ta “giữ máy” (put on hold) rồi bỏ đi một lúc. Khi trở lại, ông Lodge đề nghị cho hai anh em được tỵ nạn, nhưng không hứa sẽ sắp xếp việc ra đi cho đến ngày mai.

Khi đó Đại Tá Dunn tình nguyện chính ông ta đi cứu hai anh em khỏi tay các nhà lãnh đạo cuộc đảo chánh. Ông Lodge đã từ chối một cách thẳng thừng: “Chúng ta không thể can dự vào việc đó.”

Cũng trong cuộc phỏng vấn nói trên, ông Dunn cho biết khi ông Lodge bảo ông Diệm “giữ máy”, ông liền thông báo cho Lucien Conein tại bộ chỉ huy của cuộc đảo chánh về ông Diệm đang ở đâu. Về sau Conein đã mạnh mẽ chối bỏ việc khám phá ra ông Diệm ở nhà thờ Tàu.[07]

Đại Tá Dunn nói:

“Tôi thật sự ngạc nhiên chúng ta không làm gì hơn cho họ”. [08]

Ông Lodge không hề báo cáo cho Washington về cuộc nói chuyện với ông Diệm nói trên.

Ông Lodge cũng đã từng nói với ký giả David Haberstam, người đã viết nhiều sách về chiến tranh Việt Nam:

“Chúng ta phải làm gì với họ nếu họ còn sống? Bất cứ Đại Tá Blimp [09] nào trên thế giới đều có thể xử dụng họ.”[10]

Lời tuyên bố này chứng tỏ theo quan điểm của ông Lodge, ông Diệm và ông Nhu phải bị giết.

Tướng Trần Văn Đôn, người phụ trách tổ chức đảo chánh ông Diệm, cho biết trong khi Lucien Conein rời Bộ Tổng Tham Mưu về nhà riêng, Tướng Minh đã ra lệnh đi bắt họ Ngô và ngầm ra lệnh giết cả hai ông. Các tướng có mặt lúc đó cũng ngầm đồng ý. “Thật ra, ý định giết hai anh em họ Ngô của Tướng Minh đã được sự đồng ý ngầm của Lucien Conein trước khi ông ta rời Bộ Tổng Tham Mưu”, [11] mặc dầu sau này Lucien Conein phủ nhận.

Tướng Đôn còn xác quyết: “Tất cả những sự việc xẩy ra đều có sự tiếp tay của Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge.”[12]

Tuy nhiên, rất khó tìm được bằng chứng chứng minh Đại Sứ Cabot Lodge đã trực tiếp ra lệnh giết ông Diệm. Trong cuốn “Lodge in Vietnam” bà Blair cho biết lúc 5 giờ sáng ngày 2.11.1963, ông Lodge đã leo lên một bao lơn (balcony) để quan sát thành phố và ở đó cho đến khi cuộc chiến đấu chấm dứt vào lúc 7 giờ. Không có nơi nào ghi lại những quyết định hay mệnh lệnh của ông trong những giờ đó.[13]

III.- VAI TRÒ CỦA LUCIEN CONEIN

Công điện đề ngày 5.10.1963 do Trạm CIA ở Sài Gòn gởi cho cơ quan CIA trung ương (tên người gởi cũng chưa được tiết lộ) đã cho biết Lucien Conein báo cáo rằng hôm 5.10.1963, ông ta đã họp với Tướng Dương Văn Minh trong 1 tiếng 10 phút tại bản doanh của Tướng Minh ở đường Lê Văn Duyệt. Tướng Minh có giải thích rằng những người nguy hiểm nhất ở miền Nam Việt Nam là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Trọng Hiếu. Tướng Minh nói rằng Ngô Trọng Hiếu trước đây là một người cộng sản và hiện nay vẫn còn là cảm tình viên của Cộng Sản. Khi Lucien Conein lưu ý rằng Đại Tá Lê Quang Tung là một người nguy hiểm hơn, Tướng Minh bảo rằng “nếu loại bỏ được Nhu, Cẩn và Hiếu, Đại Tá Tung sẽ qùy trước tôi.”[14]

Cuộc đối thoại này cho thấy Lucien Conein đã đồng ý loại bỏ ông Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn và ông Ngô Trọng Hiếu. Ông ta chỉ gợi ý giết thêm một người thứ tư là Đại Tá Lê Quang Tung.

Tuy nhiên, về trường hợp của ông Ngô Trọng Hiếu chúng tôi thấy có nghi vấn. Ông Ngô Trọng Hiếu chỉ là Bộ Trưởng Công Dân Vụ và sau đó kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao sau khi ông Vũ Văn Mẫu từ chức, ông không có hành động nào chứng tỏ ông là người nguy hiễm. Chúng tôi nghi rằng Trạm CIA đã ghi lầm tên Dương Văn Hiếu với Ngô Trọng Hiếu. Lúc đó ông Dương Văn Hiếu đang là Phó Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia đặc trách về Cảnh Sát Đặc Biệt và là người lãnh đạo Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cơ quan mật vụ của ông Nhu. Chính Dương Văn Hiếu đã cho theo dõi và khám phá ra Tướng Minh liên lạc với Việt Cộng làm Tướng Minh bị thất sủng, nên Tướng Minh thù Dương Văn Hiếu.

Năm 1961 Lucien Conein đã xin về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong cho chức Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài Gòn làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ của VNCH, nhưng trong thực tế, Lucien Conein có nhiệm vụ móc nối với các tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết để tổ chức đảo chánh lật đổ ông Diệm. Trong cuốn “Việt Nam 1954 – 1975, những sự thật chưa hề nhắc tới” do Hoàng Lạc và Hà Mai Việt xuất bản năm 1990, ở trang 247 có ghi:

“Lucien ngồi trên ghế bành lớn của Đại Tướng Tỵ, gác chân lên bàn, bên cạnh là khẩu Magnum 44, dưới chân bàn là hai xách tay trong đựng sáu triệu đồng bạc Việt Nam. Số tiền này sau được phát cho Tướng Đôn ba triệu, phần còn lại chia cho các Tướng khác.”

IV.- PHÓ TỔNG THỐNG VÀ TỔNG THỐNG BÓ TAY

Trong cuộc họp vào lúc 11 giờ ngày 31.8.1963 tại Bộ Ngoại Giao, khi nhắc lại âm mưu lật đổ ông Diệm được Hoa Kỳ đưa ra vào tuần trước, Phó Tổng Tống Johnson tin rằng không có lãnh tụ nào khác để làm tổng thống ở Nam Việt Nam. Khi Ngoại Trưởng Dean Rusk hỏi ông có góp phần gì được không, ông nói: “Chúng ta phải ngưng ngay trò chơi cảnh sát và kẻ cướp” và “Chúng ta phải nói chuyện thẳng với ông Diệm.” Ông nhấn mạnh: “Một lần nữa phải lo thắng cuộc chiến.”[15]

Ông nói tiếp: “Chắc chắn Hoa Kỳ không thể tự mình rút ra khỏi một cuộc đảo chánh và chắc chắn có những tình hình xấu ở Nam Việt Nam. Tuy nhiên cũng có những tình hình xấu ở Hoa Kỳ. Khó mà sống với Otto Passman[16] [937] nhưng chúng ta không thể rời khỏi ông ta.”[17]

Sau này, ngày 1.2.1966, Tổng Thống Johnson đã gọi điện thoại cho Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthay nhắc lại chuyện chính quyền Kennedy tổ chức giết ông Diệm để có thể tham chiến ở Việt Nam:

Johnson: … Nhưng ngài nhớ, lúc đầu họ nói với tôi về ông Diệm.

MacCarthy: Có chứ.

Johnson: (Rằng) ông ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta đã giết ông ta. Tất cả chúng ta đã họp lại với nhau và XỬ DỤNG MỘT BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ ĐÁNG NGUYỀN RỦA để hạ sát ông ta. Bây giờ, chúng ta thật sự không có sự ổn định chính trị [ở Miền Nam Việt Nam] từ lúc đó.”

Tổng Thống Kennedy gần như không kiểm soát được gì hết. Ông đã nói về công điện ra lệnh đảo chánh lật đổ ông Diệm của nhóm Harriman gởi đi ngày 24.8.1963 như sau:

“Theo sự xét đoán của tôi, bức điện đó đã được soạn thảo tồi tệ. Bức điện đó phải không bao giờ được gởi vào hôm thứ bảy. Tôi phải không bao giờ biểu đồng tình nếu không được bàn luận bàn tròn.”

Mặc dầu nhận thấy như vậy, ông đã không ra lệnh ngưng thi hành công điện đó!

Sau khi lật đổ và giết ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Kennedy không còn tin tưởng vào cuộc chiến thắng tại miền Nam Việt Nam. Trong cuộc họp báo ngày 14.11.1963, Tổng Thống hỏi:

“Bạn có chào thua tại miền Nam Việt Nam không?”

Rồi ông tự trả lời câu hỏi của chính mình:

“Chương trình quan trọng nhất, dĩ nhiên là cho nền an ninh của chúng ta, nhưng tôi không muốn Hoa Kỳ đưa quân tác chiến sang đó.”

Sau đó ông nói:

“Giờ đây mục tiêu của chúng ta là đưa quân nhân Hoa Kỳ về nước, cho phép Việt Nam tự duy trì lấy nước mình như là một quốc gia độc lập.”[18]

Trong khi đó, các thế lực tư bản đứng đàng sau muốn mở rộng chiến tranh và đổ quân vào Việt Nam. Vì thế, ông đã bị giết ngày 22.11.1963 tại Dallas.

Khi hay tin Tổng Thống Kennedy bị ám sát, Phó Tổng Thống Lyndon Baines Johnson chỉ vào bức hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang treo trong nhà ông và nói: “Chúng ta đã nhúng tay vào việc giết ông ta. Bây giờ chuyện đó lại xẩy ra ở đây.”[19]

Còn lâu lệnh giết Tổng Thống Diệm và Tổng Tống Kennedy mới được chính thức đưa ra ánh sáng.

Ngày 23.10.2014
Lữ Giang

Ghi chú
[01] http://www.realclearhistory.com/2011/11/02/the_assassination_of_ngo_dinh_diem_622.html

[02] Joseph J. Trento, “The Secret History of the CIA”, Carrrol & Graf Publishers, New York, 2005, p. 334.
[03] Joseph J. Trento, sách đã dẫn, tr. 334 – 335.
[04] Henry Cabot Lodge, “The Storm Has Many Eyes, Norton & Company, New York. 1973, tr. 207.
[05] Anne Blair, Lodge in Vietnam, a patriot Abroad, Vail Ballou Press, New York 1995, tr. 10, 15, 19 vaø 124.
[06] Henry Cabot Lodge, sách đã dẫn, tr. 207.
[07] Francis X Winters, The year of the hare: America in Vietnam, 25 January 1963 – 15 February 1964, University of Georgia Press, Athens & London, tr. 104.
[08] Mark  Moyar, sách đã dẫn, tr. 272.
[09] Đại Tá Blimp là một nhân vật trong chuyện biếm hoạ của David Low, thường có những quan điểm lỗi thời hay cực kỳ bảo thủ.
[10] Mark  Moyar, sách đã dẫn, tr. 272.
[11] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 273 – 274.
[12] Trần Văn Đôn, sách đã dẫn, tr. 274.
[13] Anne Blair, Lodge in Vietnam, a patriot Abroad, Vail Ballou Press, New York 1995, tr. 70.
[14] FRUS 1961 – 1963. Volume IV, tr. 365 – 367. Document 177.
[15] William J. Rust, Kennedy in Vietnam, Da Copo Press, Inc. New York 1985, tr. 129.
[16] Otto Ernest Passman là một dân biểu bảo thủ thuộc đảng Dân Chủ, bang Luisiana, thường chống lại ngoại viện. Ông phục vụ trong Quốc Hội từ 1947 đến 1977.
[17] FRUS 1961 – 1963. Volume IV, tr. 74. Document 37
[18] Robert S. McNamara, In Retrospect, the Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage Books, New York 1996, tr. 86.
[19] Ellen J. Hammer, Death in November, Oxford University Press, New York, 1987, tr. 309.
 

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.