Uncategorized

Một chuyện buồn có thật: Thằng súc sinh

Theo đạo Phật, mục đích giữ mười giới là để đem lại cuộc sống an vui cho mình và cho người.
1) Không sát sanh; 2) Không trộm cướp; 3) Không tà dâm; 4) Không nói dối; 5) Không nói lưỡi hai chiều 6) Không nói lời hung ác; 7) Không nói lời hoa mỹ để lừa gạt; 8) Không Tham dục; 9) Không sân hận; và 10) Không tà kiến.

o O o

Theo đạo Phật, mục đích giữ mười giới là để đem lại cuộc sống an vui cho mình và cho người.
1) Không sát sanh; 2) Không trộm cướp; 3) Không tà dâm; 4) Không nói dối; 5) Không nói lưỡi hai chiều 6) Không nói lời hung ác; 7) Không nói lời hoa mỹ để lừa gạt; 8) Không Tham dục; 9) Không sân hận; và 10) Không tà kiến.

o O o

Ngày tôi còn học Y Khoa, ở khu Sản khoa thời đó ở miền Nam Việt Nam chỉ cho phép làm “abortion therapeutique”, với chữ ký cuả 3 vị Thầy đồng ý phải bỏ thai nhi để cứu mạng sản phụ.

Và đây là chuyện rắc rối mà tôi đã gặp phải sau 1975, Anh chị M., đối với tôi là một cặp vợ chồng có tư cách rất đáng qúy, tôi luôn xem hai người như anh chị ruột của mình. Anh M., một Phật tử thuần thành, lớn hơn tôi 10 tuổi, tốt nghiệp đại học bên Pháp, là một người sống nhiệt thành vì lý tưởng, lập gia đình trễ, từng giữ chức vụ khá lớn thời Việt Nam Cộng Hoà.

Năm 1980, khi mới ở tù cộng sản ra, tôi là người đưa chị M. đến nhà thương sanh con gái đầu lòng – cháu Phương Thanh (tên đã được thay đổ). Từ đó cháu luôn gọi tôi là “bố nuôi”, vì sau khi ra đời, anh M., bố ruột của cháu bị Việt cộng kết án 8 năm tù, do viết những tài liệu “phản cách mạng”. Anh được phóng thích năm 1988 và chết vì bệnh một năm sau đó (1989).

Câu chuyện chẳng có gì đáng nói, nếu năm 1985, sau một lần đi thăm nuôi chồng, chị M. đã đến nhờ tôi dẫn đi bệnh viện để phá thai, hậu quả của một vụ ‘cưỡng hiếp tập thể’ của bọn bộ đội Việt cộng đóng trong khu rừng ở vòng đai trại giam chồng mình. Tôi thật sự bối rối trước quyết định có nên ‘giúp đỡ’ (?) chị hay không. Dù việc phá thai thời đó chẳng khó khăn gì, tất cả các bệnh viện phụ sản: Từ Dũ, Hùng Vương, An Bình (BV Triều Châu cũ)… đều làm rất nhanh chóng và miễn phí, chỉ khoảng nửa giờ là xong, vì đó là “chính sách lớn” của nhà nước cộng sản, chẳng ai mất thì giờ tìm hỏi lý do.

Trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ quyết định phá thai cuả chị là đúng, vì hiểu hoàn cảnh khó khăn của một người phụ nữ mang thai lúc chồng đang ở tù (!). Và lại mang dòng máu của một thằng “súc sinh” nào đó!

Sự việc khá giản dị nếu lúc đó tôi đưa chị tới bệnh viện, giới thiệu cho một bác sĩ mà tôi rất thân.
Nhưng, một phần vì trung thành với tâm nguyện “không sát sinh” (dù chỉ là gián tiếp giúp người). Một phần vì muốn biết quyết định của “người trong cuộc” để khỏi mang trách nhiệm về sau, nên tôi đã đi cùng chị M. lên tận trại giam, hỏi ý kiến ông chồng. Và quyết định của anh M., tuy giúp tôi trút được gánh nặng, vì không muốn trực tiếp hay gián tiếp dính dấp tới việc phá thai, dù có hơi ngạc nhiên xen lẫn với một chút thán phục, khi nghe anh nói với vợ: “Anh sẽ bỏ qua mọi chuyện. Và dù thế nào vợ chồng mình vẫn nên giữ đứa nhỏ”.

Năm 1988, sau khi anh được phóng thích, thỉnh thoảng tôi cũng có ghé thăm anh chị. Chỉ ‘thỉnh thoảng’ thôi, vì không dễ chấp nhận thái độ có vẻ nhỏ nhen của mình, chẳng vui vẻ gì mỗi khi nhìn thấy “thằng con hoang”, dù thằng bé phát triển bình thường và vẫn nhận được sự đối xử tốt của cha (?) mẹ. Ít nhất là qua thái độ của anh. Riêng với cháu Phương Thanh, tôi vẫn luôn xem cháu như con gái mình, còn với thằng bé này, tôi không hề muốn biết tên và cũng chưa một lần nhìn kỹ nó, chứ đừng nói là vuốt tóc hoặc cho qùa.

Sau khi anh M. qua đời vài tháng, cuối năm 1990, trước khi sang Mỹ, tôi có ghé chào chị. Cháu Phương Thanh đã hơn 10 tuổi còn thằng nhóc khoảng 4 tuổi. Việc liên lạc thưa dần cho tới năm 2001, qua người quen còn ở Sài gòn, tôi nhận được tin chị M. đã mất ở tuổi 56, không rõ lý do. Cháu Phương Thanh đang học Sư Phạm Saigòn, sắp trở thành cô giáo.

Những tưởng mọi việc rồi sẽ qua đi. Nhưng đến năm 2003, lần đầu ở Mỹ tôi nhận được thư từ cháu Phương Thanh, đại ý:

“Cháu đã tự tử nhiều lần nhưng không chết vì còn nặng nợ. Cháu viết thư này cho chú, để bày tỏ sự oán hận cuộc đời vì quyết định dựa trên niềm tin sai lầm của chú ngày trước, đã không giúp mẹ cháu phá thai, để thằng… X, em cháu sinh ra đời, đã làm tan nát gia đình cháu. Từ năm 15 tuổi, nó sa đà nghiện ngập, phá tan hết của cải, nhiều lần đánh đập mẹ cháu làm mẹ cháu phải chết trong đau buồn.

Sau khi mẹ cháu chết, không còn ai cản được nó, nên một lần trong cơn say thuốc, nó đã “làm hỗn” với cháu” … (Chữ “làm hỗn” là chữ tôi viết cho nhẹ bớt câu chuyện đi, vì chữ dùng trong thư nghe “kinh hãi” quá!)

Tôi tự biết mình không bao giờ đủ chữ nghiã để biện minh hay an ủi cháu nên đành giữ im lặng.
Nhưng qua bức thư đó, mới thấy là trong cuộc đời, việc gì cũng có ngoại lệ: Không nhất thiết “Giữ mười giới để đem lại cuộc sống an vui cho mình và cho người”. Trong câu chuyện này, những người trong cuộc đã giữ giới “không sát sanh” để ai được an vui? Giá ngày đó, mọi người đều đồng ý quyết định phá thai (sát sanh?) thì có lẽ cuộc sống gia đình anh chị M. tốt đẹp hơn nhiều.

o O o

Nhân chuyến về Việt Nam năm 2010, tôi đã thu hết can đảm tìm thăm cháu Phương Thanh tại một ngôi chùa bên Gia Định.

Thật may mắn, “ni cô” Phương Thanh đã tiếp chuyện tôi với vẻ khoan hoà của một người tu hành. Phương Thanh cho biết, cô đã an tâm tha thứ và quên hết chuyện cũ kể từ khi biết tin thằng em bị công an bắn chết tại Vũng Tàu vì tội ăn cướp.

Có lẽ cho tới ngày hôm nay, tôi chưa từng tự tay giết một sinh vật nào dù nhỏ bé đến đâu. Tôi là một Phật tử … nhưng không hiểu sao khi nghe tin “thằng súc sinh “ bị bắn chết mà lòng tôi lại vui đến thế?

Nghiêm Hữu Hùng

Đọc câu chuyện buồn trên, một độc giả đã nêu lên câu hỏi: “Trường hợp này Gia Đình Nazareth sẽ giải quyết ra sao?”

Trả lời góp ý:

Thưa vị độc giả,

(Là một thành viên trong Gia Đình Nazareth, nhưng những góp ý sau đây chỉ mang tính cách cá nhân và không đại diện quan điểm của Gia Đình Nazareth.)

Tôn giáo là đề tài rất nhậy cảm và do đó cũng rất khó được sự đồng thuận của mọi người. Theo Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, trên thế giới có bao nhiêu người thì có bằng ấy con đường dẫn đến cứu cánh giải thoát. Những gì thuộc về lãnh vực trừu tượng của tâm linh thường là những cái khó chấp nhận của lý lẽ tự nhiên. Thí dụ, tại sao trên đời có nhiều người ăn ngay ở lành lại phải thua thiệt và đau khổ; ngược lại, cũng có nhiều kẻ gian ác lại được sung sướng, thành đạt. Tuy nhiên, uẩn khúc của câu chuyện trên có liên quan đến niềm tin, nên để lý giải, chúng ta không thể không nhờ đến tôn giáo.

Trường hợp thứ nhất có thể là đã xẩy ra cho vợ chồng Ông bà M, và cháu Phương Thanh. Riêng bà M và cháu Phương Thanh không những khổ thể xác mà còn buồn phiền dâng ngập cả tâm hồn. Đối với người viết, Bác sỹ Nghiêm Hữu Hùng cũng vì liên quan đến trường hợp của gia đình này nên cũng bị lương tâm dằn vặt dù vì đã vui khi nghe tên một đứa bất nhân bị bắn chết.

Nếu ta gọi đạo là đường, con đường dẫn tới giải thoát, thì có nhiều cái mà ngay khi ta đang đi trên con đường ấy xem ra đã không giúp gì cho cái cứu cánh mà mình đang hướng tới nếu chúng được nhìn bằng mắt phàm trần, được đem phân tích bằng sự hiểu biết của lý trí, và được giải thích theo khoa học. Người cha trong câu truyện này đã quảng đại, bao dung chấp nhận một món quà Thượng Đế ban tặng mà không cần quan tâm đến nó như thế nào và được gói ghém ra sao. Hoặc như người bạn thân trong gia đình đã vì tấm lòng chân thành với bạn bè, với lương tâm mà lại bị chính lương tâm cắn rứt. Và sau cùng là người mẹ và người chị. Họ đã gánh chịu bao nhục nhằn, tủi hổ đến nỗi một người phải chết đi tức tưởi vì tình yêu và sự tha thứ, và một người chỉ tìm được niềm an lạc khi cái sự dữ từng gây ra bao thử thách cho gia đình và cho riêng mình được gỡ bỏ. Lý trí tự nhiên hỏi, Thượng Đế ở đâu? Liệu Ngài có nhìn thấy, nghe thấy, và cảm thấy những giọt nước mắt, những tiếng khóc nức nở của những tâm hồn hiền lành, chân thật đang tin tưởng và đang hướng lên Ngài hay không?

Tuy nhiên với niềm tin vào chân lý, vào đạo mầu, lại dậy rằng Thượng Đế – Ông Trời – luôn có mặt. Ngài ở ngay bên những người ấy, và dĩ nhiễn nghe, thấy, cảm nhận, và chia sẻ tất cả những nỗi truân chiên của nọ. Và cũng chính vì họ là những tâm hồn thiện chí, và được niềm tin hướng dẫn nên họ đã cảm, đã ngộ, và đã nhận ra chân lý sau những thử thách.

Thật vậy, người cha trong trường hợp này quả là phi thường, và nhân đức khác người. Một người bình thường không thể đón nhận một món quà tuy nói là không biết nó ra sao, nhưng được gói ghém như thế nào thì ông cũng đã rõ. Ông thật đáng khâm phục.

Trong cùng một niềm kính phục, người mẹ đau khổ cũng đáng được tôn vinh. Chỉ có tình yêu người mẹ, lòng kính yêu Thượng Đế mới giúp bà chịu đựng, vượt qua được những thử thách lớn lao. Cái chết của bà là chiến thắng của nội tâm, và là phần thưởng cho những tâm hồn luôn trung thành với chân lý trường cửu. Là một câu trả lời cho những lương tâm ngay lành, là sự thiện bao giờ cũng thắng. Tôi tin là Thượng Đế qua cái chết đã đón nhận bà, và đã giải thoát bà. 

Nhưng trước khi bàn đến thái độ vui mừng của tác giả, cũng như lương tâm an lạc của ni cô Phương Thanh, chúng ta cũng cần đề cập sơ qua đến sự xuất hiện của “thằng súc sinh”. Thằng súc sinh nếu được gọi và gán cho nó cái tên như vậy cũng không quá đáng, vì nó đã được Thượng Đế ưu đãi nhưng đã không đón nhận ân huệ của Trời. Nó được đưa ra từ hư vô để trở thành hiện hữu do Đấng tự hữu đã ban tặng sự hiện hữu cho nó. Nó được đón nhận vào một gia đình với lòng rộng rãi bao la của người cha và cũng là dưỡng phụ, được âu yếm, săn sóc tận tình của người mẹ, và yêu thương trìu mến của người chị. Nhưng cái vô phúc của nó là đã để mình bị cuốn hút vào con đường lầm lạc, và đã làm nẩy sinh bao nhiêu sự dữ cho những người đã cưu mang, và yêu thương nó.

Nhưng “Thượng Đế luôn viết thẳng trên con đường cong” (Giáo Hoàng Phanxicô). Ngài có thể biến cái xấu thành cái tốt nếu con người biết cộng tác với Ngài. Đối với một tâm hồn thiện chí thì “tất cả đều là hồng ân”.  Do đó, những sự dữ gây ra do “thằng súc sinh”, đơn giản chỉ là một thử thách nhằm nâng cao vẻ đẹp tâm hồn, cần thiết cho việc thanh luyện trái tim con người. Nhìn những đau khổ, thử thách, bất hạnh dưới góc độ này, ta sẽ nhận ra chỗ đứng của “thằng súc sinh”, và những việc làm của nó cho gia đình ông bà M, cũng như đối với tác giả. Nó chỉ là một cây cọ của Thượng Đế dùng để vẽ nên bức tranh an bình, thư thái và vui mừng trong tâm hồn những người thiện chí như ni-cô Phương Thanh, và như bác sĩ Nghiêm Hữu Hùng. Trong đó có cảnh yêu thương, tha thứ và đón nhận tuyệt vời của người dưỡng phụ và người mẹ là ông bà M., cũng như cảnh diễn tả tình yêu chung thủy mà ông M đã dành cho vợ dù trong hoàn cảnh đen tối như thế nào. Do đó, nếu bác sỹ Nghiêm Hữu Hùng nay cảm nhận thế nào là niềm vui trọn vẹn của một lương tâm chân chính đối với lời giảng dậy của tôn giáo, và ni cô Phương Thanh nay trút bỏ được mọi thù hận, mọi tham, sân, si để ngộ được chân lý cũng chính là qua những thử thách mà cả hai đã vượt qua để bảo toàn được niềm tin của những tâm hồn mộ đạo. Phần “thằng súc sinh”, dĩ nhiên, cũng đã qua đi khi định mệnh an bài không còn chỗ cho nó hiện hữu nữa.

Để kết luận, chúng ta tự hỏi: “Nếu không có sự xuất hiện của “thằng súc sinh” thì tình thân hữu giữa hai gia đình, và cuộc sống của mỗi người trong gia đình của Ông M sẽ như thế nào?” Chưa ai biết được, vì tất cả chỉ là tương lai. Nhưng thực tại rõ ràng đã cho biết là sau khi đã được gọt dũa qua một số thử thách, bộ mặt và chỗ đứng của mỗi người đã được xác định. Niềm tin đã thắng, và bằng an là hoa trái của thiện tâm.

Trần Mỹ Duyệt

 

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.