Trưa 5/7, Công an TP Hà Tĩnh cho biết, đang tạm giữ hình sự Nguyễn Văn Tiến, để điều tra tội giết người.
Theo cơ quan điều tra, ngày 4/7 đơn vị tiếp nhận thông tin từ phía hội đồng thi THPT quốc gia trường Đại học Hà Tĩnh về việc giám thị Phạm Thị Oanh (23 tuổi, trú Hà Nam), hiện đang là sinh viên Đại học Huế được cử đi làm giám thị bị mất tích.
Nghi có vụ án mạng, công an đã vào cuộc điều tra. Nhiều giờ sau, Tiến được xác định là nghi can, và bị bắt khi đang lẩn trốn trên địa bàn TP Hà Tĩnh. Anh ta đang là tài xế của một hãng taxi trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Theo lời khai bước đầu tại cơ quan điều tra, tối 3/7, Tiến chở nữ giám thị từ xã Thạch Hạ về TP Hà Tĩnh đi lễ. Sau lễ nhà thờ xong, trên đường trở về, anh ta đã dừng xe bóp cổ nữ giám thị, cướp đi một túi xách, điện thoại di động và 250 nghìn đồng tiền mặt. Khi chị Oanh chết, Tiến chở thi thể nữ giám thị tới cầu Sú (khối 1, trị trấn Cày, Hà Tĩnh) để phi tang. (nguồn: internet)
Qua vụ án này, cũng như những vụ án trước đây, (vụ Lê văn Luyện, hay vụ thảm sát cả một gia đình ở Bình Phước, chẳng hạn), có thể nói rằng, chúng ta đang phải sống trong xã hội đầy bạo lực, một xã hội mà phẩm hạnh của con người ngày một xấu đi.
Nếu có ai hỏi vì đâu nên nỗi, có lẽ không ai trong chúng ta lại không nhận định, rằng: chỉ vì ngày nay, “tình người” như một thứ xa xỉ, quá đắt giá để con người sở hữu…
Thì đây, thật không thể tin được, gần đây, đã có những nhà từ thiện bị chất vấn rằng “động cơ của việc làm từ thiện là gì?”. Một câu chất vấn được đưa ra, theo nhận định của một số blogger, chỉ để “xoáy, vặn, chì chiết, bắt bẻ những sơ suất về thái độ, về cách thức, về phẩm chất hàng từ thiện, khoái trá bàn luận về những chuyến hàng từ thiện bị địa phương từ chối”.(nguồn: internet)
Vâng, quả là một chất vấn rất thiếu tình người khiến ta liên tưởng tới một lời nhận xét của người Roma xưa “Homo homini lupus – Con người đối xử với nhau chẳng khác gì chó sói”
Tất nhiên, chỉ có những loại con người mà phần “người” thì ít, còn phần “con” thì nhiều, mới có những cách chất vấn, cách đối xử với nhau như thế.
Đã là một con người phải có tình người. Là một Kitô hữu, “tình người” như là điều kiện ắt có và đủ để thiên hạ nhận biết đó là môn đệ Đức Kitô.
Kinh thánh dạy chúng ta rằng, “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Khi nói về tình người, Đức Giêsu cũng đã đưa ra một bài học sâu sắc về tình người. Bài học đó đã được Ngài truyền dạy, qua một dụ ngôn, dụ ngôn mang tên “Người Samari tốt lành”.
**
Dụ ngôn được kể, rằng: Có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu, để thử người: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (Lc 10, 25).
Đây không phải là lần đầu tiên có người tìm đến Đức Giêsu để hỏi Ngài một câu hỏi với nội dung như thế. Trước đây, cũng đã có một chàng thanh niên giàu có đến với Đức Giêsu, cũng với ý ngay lành nêu trên.
Với chàng thanh niên giàu có, Đức Giêsu đã đưa ra những lời khuyên, để nhờ đó, anh ta có thể đón nhận được điều anh ta muốn có. Rất tiếc, anh này “còn lắm bon chen… còn lắm đam mê…”, cuối cùng, anh ta quay gót “thôi đành hẹn lại kiếp sau”.
Ngược lại, với người thông luật, thay cho lời khuyên, Ngài đã đưa ra một câu hỏi, một câu hỏi ngầm ý như một lời trách cứ, rằng “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”
Vâng, làm sao không trách cứ chàng thông luật này cho được. Người thông luật, chính là thầy thông giáo, thầy thông giáo chính là người am hiểu, rành rẽ luật Môse, luật Môse được ghi trong ngũ thư là những cuốn sách nói rất rõ về Mười Điều Răn, về lề luật, về lễ nghi thờ phượng Đức Chúa Trời.
Nói cách khác, là thầy thông luật, ông ta dư biết phải trả lời như thế nào. Thật vậy, sau khi nghe câu hỏi của Đức Giêsu, vị thông luật đã trả lời “ngọt sớt”, rằng “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.
Đấy! chúng ta thấy đấy! qua cách trả lời của ông ta, như thể chính ông ta là người ra câu hỏi.
Vâng, mọi sự tưởng chừng như chấm hết khi Đức Giêsu nói với ông ta rằng: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.
Thế nhưng, ông thầy thông luật này không chịu dừng ở đó. Ông ta còn muốn chất vấn Đức Giêsu, một sự chất vấn rất thâm hiểm, biến câu trả lời của mình thành câu hỏi, một câu hỏi hóc búa, trước là để thử Đức Giêsu, sau là để chứng tỏ mình-có-lý.
“Nhưng ai là người thân cận của tôi?”
Ai! “Ai là người thân cận của tôi ?”
Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu, một lần nữa, Ngài đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn cho đến ngày nay, giới luật pháp quốc tế đã biến nó thành một đạo luật mang tên “luật người Samari nhân hậu”.
Đây là một đạo luật rất cũ, nhưng thiết tưởng chúng ta cũng cần biết, qua phần chia sẻ của Lm. Jude Siciliano, OP, trong một bài giảng về chủ đề người Samari nhân hậu, rằng: “Trong thế giới luật pháp, có ‘luật người Samari nhân hậu’, luật này yêu cầu bảo vệ hợp pháp với những ai giúp đỡ chính đáng cho người khác khi người đó bị thương tích, đau yếu hoặc trong những tình cảnh hiểm nghèo. Luật người Samari nhân hậu này nhằm khuyến khích người khác trợ giúp những ai lâm cảnh hoạn nạn”.
Trở lại với dụ ngôn “người Samari nhân hậu”. Qua dụ ngôn này, chúng ta sẽ được thấy ba nhân vật lần lượt xuất hiện. Thứ nhất là thầy tư tế. Thứ hai là thầy Lê-vi, và cuối cùng là một người Samari.
Cả ba người, kẻ trước người sau, đều đi trên một lộ trình, lộ trình từ “Giêrusalem xuống Giêricô” (x.Lc 10, 30).
Cả ba đều nhìn thấy cảnh bi đát của một người lữ khách. Anh ta “bị rơi vào tay kẻ cướp… bị lột sạch… bị đánh nhừ tử…” và bị quẳng ra nằm rên rỉ ngay bên vệ đường.
Không thể tin được! Dù trông thấy người lữ khách đang nằm “nửa sống nửa chết”… Nhưng cả thầy tư tế lẫn thầy Lêvi đều “tránh qua bên kia mà đi”.
Còn người Samari ư! Vâng, anh ta cũng thấy, nhưng không bỏ đi.
“Động cơ nào… động cơ nào…”
Vâng, đúng ra phải nói là: động lực nào thúc đẩy anh chàng Samari không bỏ đi! Thưa, chính là “lòng thương xót”. Nói cách khác, con tim chàng Samari “rung động”.
Đúng vậy, con tim chàng Samari rung động. Thế nên, lòng thương xót của anh ta không dừng ở đôi mắt, không dừng ở tấm lòng, nó được lan tỏa tới đôi chân và đôi tay. Chuyện kể rằng “Ông ta lại gần”. Lại gần làm gì? Để xem trên con người bất hạnh này còn thứ gì quý giá “hốt hụi chót” chăng!
Thưa không. “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10, 34)
Chưa hết, tới quán trọ, chàng Samari còn “lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, chính tôi sẽ hoàn trả lại bác” (x.Lc 10, 35)
Viết tới đây, tôi chợt nhớ đến nạn hôi của ở Việt Nam. Có lẽ, ai trong chúng ta cũng còn nhớ đến vụ “hôi bia” xảy ra ở Biên Hòa, cách nay vài năm. Hôm đó, tại khu vực vòng xoay Tam Hiệp (thuộc KP.1, phường Bình Đa, TP.Biên Hòa, Đồng Nai), chiếc xe tải chở 1,5 ngàn thùng bia bị đổ xuống đường, hàng trăm người lao vào hôi của. Có cả người mang xe ba gác ra chở bia mặc tài xế và lơ xe van xin.
Thật buồn thay! “tình người” trong thời buổi hôm nay là như vậy đó!
Trở lại câu chuyện dụ ngôn. Câu trả lời đã rõ.
“Ai là người thân cận của tôi ?”. Đối với thầy thông luật cũng như toàn thể người Do Thái, họ quan niệm rằng “người thân cận” chính là người đồng đạo, đồng hương và đồng chủng tộc.
Với Đức Giêsu, qua dụ ngôn, Ngài không chỉ gửi đến thầy thông luật một “đáp án” mà còn để lại nơi ông ta một quan niệm mới về “tình người”.
“Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Thầy thông luật với một nhãn giới mới về “tình yêu thương” ông ta đã không ngần ngại trả lời rằng “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”.
***
Là một Ki-tô hữu, chúng ta cũng được dạy rằng: “trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
“Yêu người” – người đó là ai? Thưa, “Bẩt cứ ai cần sự trợ giúp của chúng ta đều là người thân cận. Nếu có lòng cảm thương trong con tim, bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai đang cần sự trợ giúp”.
Vâng, đó chính là lời ĐTC Phanxicô đã nói với hơn 80.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần.
Sau đó, Ngài nói tiếp, rằng: “Sự cảm thương, tình yêu, không phải là một tâm tình mông lung, nhưng có nghĩa là lo lắng cho tha nhân cho tới độ chính mình phải trả giá. Nó có nghĩa là để cho mình bị liên lụy bằng cách làm mọi sự cần thiết để tới gần người khác cho tới độ tự đồng hóa với họ: ‘Hãy yêu tha nhân như chính mình’. Đó là giới răn của Chúa”(nguồn: đài Vatican)
Với lời giáo huấn nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng, người thân cận của chúng ta không ở đâu xa, không phải ở tận cung đường “từ Giê-ru-sa-lem lên Giêricô”, nhưng là ở ngay bên cạnh chúng ta, họ là người hàng xóm, họ là đồng nghiệp, tất nhiên, họ cũng là những người có liên hệ tự nhiên chặt chẽ với chúng ta, như cha mẹ với con cái, vợ chồng, anh em… rất nhiều, rất nhiều và rất nhiều.
Chúng ta không chỉ quan tâm đến họ về mặt “thuộc thể”, như giúp đỡ tiền bạc vật chất, nhưng còn phải quan tâm về mặt “thuộc linh”, tinh thần, đức tin.
Đúng vậy, qua lăng kính thần học, Lm. Charles E. Miller chia sẻ rằng, “Tội lỗi ‘mai phục’ trên đường đi của nhân loại, chực tước đoạt nhân phẩm của chúng ta, trấn lột chúng ta và cướp đi ân điển của Thiên Chúa. ‘Tội’ đánh đập ta nhừ tử, rồi bỏ mặc ta dở sống dở chết. Chúa Giêsu đến nâng ta dậy, không phải để đặt lên lưng một con vật nào đó, mà là lên vai của Người và đưa ta về ngôi nhà Giáo Hội. Nơi đây, chúng ta được chăm sóc cho đến lúc Người lại đến trong vinh quang trong ngày chúng ta được sống lại”
Với lời chia sẻ này, ngoài việc “thương xác bảy mối” chúng ta còn phải “thương linh hồn bảy mối”.
Vì trên thực tế, còn đó rất nhiều người đang cần ta giúp đỡ phần linh hồn. Họ chẳng khác gì người nạn nhân trong dụ ngôn. Họ bị ma quỷ trấn lột, lấy mất những tài sản thuộc phần thiêng liêng. Họ bị đánh trầm trọng, không bằng tay chân, nhưng bằng những chủ thuyết lệch lạc, đại loại như chủ thuyết vô thần, đầy sự lừa lọc và dối trá, hoặc bằng những thú đam mê dục vọng, bằng tiền tài danh vọng, hay bằng một nền văn hóa sự chết.
Họ bị bỏ lại bên ngoài Giáo Hội. Họ đang cần chúng ta “chạnh lòng thương”, họ cần chúng ta giúp đỡ, không bằng “hai quan tiền” nhưng bằng sự hy sinh, hãm mình và nhất là bằng lời cầu nguyện, vì như lời Chúa Giê-su nói, “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”(x.Mc 9, 29)
Đừng quên, tông đồ Phao-lô có nói: “Anh em không mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ yêu thương, vì ai thương yêu, người đó giữ trọn lề luật”. Thế nên, đã là một Ki-tô hữu, chúng ta phải là “người Samari tốt lành”.
Trở lại với ĐTC Phanxicô, hôm đó, kết thúc bài giáo huấn về dụ ngôn người Samari tốt lành, ngài nói: “Dụ ngôn này là một món quà tuyệt diệu cho tất cả chúng ta, và cũng là một dấn thân nữa! Chúa Giêsu lập lại với từng người trong chúng ta điều Ngài đã nói với vị tiến sĩ Luật: ‘Hãy đi và làm như vậy’. Chúng ta tất cả được mời gọi đi cùng con đường của người Samari nhân hậu, là gương mặt của Chúa Kitô: Chúa Giêsu cúi xuống trên chúng ta, biến thành tôi tớ của chúng ta, và như thế Ngài đã cứu chuộc chúng ta, để cả chúng ta nữa cũng có thể yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta, theo cùng một cách thức”.
Vâng, đúng là “một món quà tuyệt diệu”, một món quà để chúng ta ý thức đến việc “dấn thân”, việc dấn thân của một người Kitô hữu.
Thưa bạn, bạn có đồng ý như thế? Nếu có, ngay bây giờ, chúng ta hãy dấn thân, dấn thân bằng việc thực thi lời Đức Giê-su truyền dạy: “Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.
Petrus.tran
Views: 0