Người chăn chiên hay cừu, được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh, từ sách đầu tiên là Sáng Thế Ký cho đến sách cuối là Khải Huyền (St 4, 2; Kh 7, 17). Những người nổi bật như Abraham, Môise và vua Đavít đều là người chăn cừu. Người viết sách Thánh vịnh là Đavít miêu tả một cách thi vị trách nhiệm và mối quan tâm của người chăn cừu tốt lành.
Sau này, vào thời Chúa Giêsu, chăn cừu vẫn còn là công việc quan trọng. Chúa Giêsu tự cho mình là “người chăn chiên tốt lành” và ngài thường dùng các đức tính của người chăn tốt để dạy những bài học quan trọng (Ga 10, 2-4, 11). Ngay cả Đấng Toàn Năng, Đức Chúa Trời cũng được ví như người chăn chiên: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì…” (Tv 23, 1-4)
Người chăn cừu vào thời nước Israel xưa hẳn chăn một số loại cừu, trong đó có giống cừu Syria, đuôi mập và lông dày. Cừu đực thuộc giống này có sừng, còn cừu cái thì không. Loài vật ngoan ngoãn ấy không thể tự bảo vệ mình, khi sống ở ngoài thiên nhiên, khỏi nanh vuốt của thú dữ. Người chăn cừu phải luôn huấn luyện bầy cừu của mình biết vâng lời. Dù vậy, người chăn tốt lành kiên nhẫn và dịu dàng chăm sóc bầy, ngay cả đặt tên cho mỗi con để nó có thể nghe tiếng người chăn. (Ga 10, 14 & 16)
Vào mùa xuân, có lẽ mỗi ngày người chăn dẫn bầy từ chuồng ở gần nhà đến những cánh đồng cỏ gần làng. Ở đấy, chúng gặm chồi non xanh tươi. Trong mùa này, cừu con sinh sôi nảy nở. Cũng vào thời điểm này, người ta xén lông cừu và đây là dịp ăn mừng!
Sau khi những cánh đồng gần làng đã thu hoạch, người chăn dẫn bầy ra ăn chồi non và hạt còn lại trên những gốc rạ. Khi mùa hè oi bức đến, người chăn chuyển bầy mình đến những cánh đồng cỏ trên vùng đất cao hơn. Trong nhiều ngày liền, người chăn dẫn bầy đi ăn cỏ trên những đồi dốc xanh mướt, làm việc và ngủ ngoài trời để canh chừng bầy. Đôi khi, người chăn cho bầy của mình nghỉ qua đêm trong một cái hang, nơi chúng được che chở khỏi những con sói và linh cẩu. Nếu tiếng tru của linh cẩu làm cho bầy hoảng loạn trong đêm tối, thì giọng trấn an của người chăn làm chúng bình tĩnh lại.
Mỗi buổi chiều tà, người chăn đếm và kiểm tra sức khỏe từng con. Buổi sáng, ông gọi và chúng theo ông ra đồng cỏ (Ga 10, 3-4) Giữa trưa, người chăn dẫn bầy đến những ao nước mát. Khi ao cạn, người chăn dẫn chúng đến giếng và múc nước cho chúng uống. Cuối mùa khô, người chăn có thể chuyển bầy đến cánh đồng và thung lũng thuộc miền duyên hải. Khi mùa mưa đến, ông dẫn chúng về nhà để trú đông. Nếu không, loài vật này có thể chết vì mưa, bão mưa đá và tuyết. Người chăn giữ chúng trong chuồng cho đến mùa xuân. Người chăn tốt lành thì siêng năng, đáng tin cậy và can đảm, thậm chí liều mạng sống để bảo vệ bầy. (1Sm 17, 34-36) (Người chăn cừu, Thư viện trực tuyến)
Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay phác hoạ chân dung vị Mục Tử nhân lành với tất cả tình yêu dành cho từng con chiên, sự phục vụ chu đáo và cứu chuộc đoàn chiên khỏi phải chết đời đời.
Yêu thương
“Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.” Mục Tử nhân lành chính thức, công khai, hợp pháp đến với đàn chiên. Người biết rõ tên từng con, âu yếm gọi tên và dẫn chúng đi ăn. Quan tâm chăm sóc, Người còn biết cả thể trạng, sức khoẻ, tính nết mỗi con, chứ chẳng bao giờ gọi chúng bằng những con số lạnh lùng, xa lạ.
“Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.” Chúng nhận biết chủ chăn, vì anh yêu thương chúng, anh nưng niu từng con, chẳng muốn mất mát con nào."Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi, mà đi tìm con chiên lạc sao?” (Mt 18, 12)
Phục vụ
“Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ." Mục Tử nhân lành luôn quên mình, dấn thân phục vụ đoàn chiên, chẳng bao giờ hách dịch, đe doạ, áp bức con chiên. “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Chỉ có chủ chăn giả mạo, sói đội lốt, mới đến lợi dụng, hãm hại, a tòng, âm mưu với kẻ dữ ăn thịt chiên lành.
Bởi vì ”Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ." (Mc 10, 45) Mặc dù là Mục Tử là người chỉ huy, lãnh đạo, nhưng luôn yêu thương phục vụ, chăm sóc, dẫn dắt, nuôi dưỡng đoàn chiên được sung mãn.
Hy sinh
“Tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” (Ga 10, 15) Không chỉ yêu thương phục vụ, Đấng Chăn Chiên tốt lành còn sẵn sàng chịu đối xử bất công, chịu khổ nạn, chịu đóng đinh, chịu chết nhục nhã trên thập giá, để cứu chuộc đoàn chiên khỏi phải chết trầm luân và sống lại khải hoàn. Vì thế, Người đã công khai tuyên bố cho những ai trung thành đi theo Người: “Tôi là cửa Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
“Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.” (Ga 15, 13) Người khiêm nhường, tự hạ, yêu thương phục vụ, còn hơn là bạn hữu, mà y như người Đầy Tớ đau khổ, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Ðây là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu. Ta hài lòng về Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn dân…” (Mt 12, 18 – 21)
Kinh Tin Kính phải đánh động con vì sự hy sinh của Chúa Giêsu: "Người đã nhập thể… và đã làm người. Người chịu đóng đinh… chịu tử hình, và mai táng…" Hy sinh trong cả cuộc sống, hy sinh trong lễ toàn thiêu. (Đường Hy Vọng, số 173)
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn ý thức rằng, Người chính là Mục Tử Nhân Lành, luôn quên mình, dấn thân, hy sinh, chăm sóc, nuôi dưỡng, cứu giúp chúng con từng giây phút trong đời. Xin giúp chúng con biết đáp lại tình yêu vô biên của Người.
Khấn xin Mẹ Maria luôn cầu thay nguyện giúp chúng con, xin Chúa ban cho nhiều Mục Tử Nhân Lành, để dẫn đưa chúng con về Nước Hằng Sống. Amen.
AM. Trần Bình An
Views: 0