Uncategorized

Cuộc chiến trường kỳ chống lại gia đình (3)

Trong đoạn cuối của loạt bài nầy, tôi xin đưa ra một ít gợi ý. Có ba đợt tấn công chống lại gia đình – (1) Sự khẳng định rằng hôn nhân nô lê hoá. (2). rằng con cái là gánh nặng và (3). rằng sự khàc biệt về giới tính là ảo tưởng.

 

Trong đoạn cuối của loạt bài nầy, tôi xin đưa ra một ít gợi ý. Có ba đợt tấn công chống lại gia đình – (1) Sự khẳng định rằng hôn nhân nô lê hoá. (2). rằng con cái là gánh nặng và (3). rằng sự khàc biệt về giới tính là ảo tưởng.

 

Phải trả lời thế nào? Tôi mong kềt thúc câu chuyện ngắn của chúng ta bằng việc suy tư không quá nhiều như thế về một giải quyết bằng hành động, mà là về cách làm sao chúng ta nên đổi mới lối suy nghĩ.

 

Trước hết, cuộc tấn công đương thời trên gia đình giả định trước những gì? Thường xuyên, ở gốc rễ của những cuộc tấn công nầy trên gia đình ẩn một sự đồi bại của cái mà Đức Gioan-Phaolô II đã gọi là “ý tưởng và kinh nghiệm của sự tự do”. Trong phân tích của Cố Giáo Hoàng, việc những ý tưởng nầy nằm bên dưới và những cơ chế xã hội và kinh tế ủng hộ chúng là một khái niệm về tự do được hình thành không phải như là một khả năng thực hiện chân lý, “mà như là một khả năng độc lập tự nhận thức về bản thân”. (Familiaris Consortio 6). Thay cho một khái niệm như vậy và được thực hiện qua những quy tắc ứng xử và tập tục phù hợp với gia đình, người nam và người nữ hợp nhất trong hôn nhân được kêu gọi để thể hiện tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Khó lòng có thể có được một chứng từ lôi cuốn về tình yêu tự trao hiến hơn là một gia đình đang cầu nguyện.

 

Kế đến, các Kitô hữu sẽ phải lượng giá lại ý niệm về bình đẳng, khởi đầu với đơn vị đo lường của nó. Rõ ràng, cả sự giảm bớt chiều cao của nam giới lẫn gia tăng trọng lượng của nữ giới cũng không kể đến. Bình đẳng thường được đo lường bằng quyền bầu cử, bằng lương tướng, bằng đề bạt – nói cách khác, theo một số tiêu chuẩn chính trị hoặc kinh tế. Ngay cả chấp nhận lúc nầy một khái niệm hoàn toàn duy vật về bình đẳng, thì đó là một thời gian dài kể từ khi chúng ta đi qua bình đẳng cơ hội đến sự cần thiết thực tiễn phải thích nghi. Vượt qua Marx, với các tín hữu Công giáo, hạnh phúc không được đo lường chủ yếu bằng việc coi tài chính như nhân tố quyết định mọi thứ. Nhân đức là một tiền tệ bền vững và ổn định hơn rất nhiều. Đó thực sự có phải là trường hợp mà đa số phụ nữ thấy hạnh phúc tại văn phòng hơn là ở nhà? Cứ cho là những kết quả độc hại của sự sắp đặt xã hội nay đã hiển nhiên, thì có một cái thoạt nhìn đã thấy là chứng cứ rằng việc theo đuổi sự bình đẳng trừu tượng được xác định như thế chống lại hạnh phúc của cả hai giới và con cái chúng ta. Đáng chú ý là nữ giới không ngừng nói rằng họ không tìm thấy nguồn gốc sự thoả mãn lớn lao nhất của họ từ công việc bên ngoài nhà. Sở thích nầy càng được đánh dấu nơi các phụ nữ có con cái. Trong một nghiên cứu Pew gần đây, khi các bà mẹ có con cái dưới 18 được hỏi về nguồn hoàn thành quan trọng nhất của họ, thì 51% đã kể ra các quan hệ của họ với con cái họ; 29% kể ra những quan hệ của họ với chồng hoặc người chồng trong hôn nhân thực tế,trong khi chỉ có 1% kể ra công ăn việc làm hoặc sự nghiệp. Tại sao nó đã trở thành sự mong đợi mà nữ giới không thể được phát huy hết năng lực trong nhà? Hôn nhân và bài dạy giáo lý tuổi thiếu niên trong lãnh vực nầy phải chuyển sang thế công.

 

Suốt thế kỷ 20 đã có một sự đổi mới tư duy về ơn gọi gia đình, gồm cả lối nghĩ về vai trò nữ giới. Đức Giosn-Phaolô II đã lưu ý rằng, trong khi việc mở rộng tiếp cận công việc công khai theo một số ý nghĩa nào đó là một thành tựu đích thực,thì không phải không có mất mát. Suốt trong các bài viết của Đức Gioan-Phaolô II, như trong Tông thư Mulieris Dignitatem (Phẩm giá phụ nữ) và Letter to Families (Thư gửi các Gia Đình) của Người, Đức Thánh Cha chỉ ra rằng nam giới và nữ giới chỉ tiến tới sự phát triển thật sự của họ qua tình yêu tự hiến. Nơi nữ giới, việc tự trao ban được thực hiện một cách rõ ràng qua việc nuôi dưỡng một đứa con. Từ đó, tình mẫu tử nơi nữ giới (vốn cũng có thể được diễn tả trong việc nuôi dưỡng các con cái thiêng liêng) cần được tôn vinh cả trên những cống hiến được thực hiện trong các lãnh vực chính trị và kinh tế (Mulieris Dignitatem 18). Đáng tiếc, ngày nay vai trò làm mẹ đã bị nhạo báng đến nỗi nhiều người thấy việc chăm sóc gia đình tại nhà vừa không hấp dẫn lẫn không thể được. Một xã hội nơi chính quyền tạo dễ dãi cho ly dị và khó khăn cho các bà mẹ ở nhà thì không tỏ ra tiến bộ, mà là đang chất dần mòn. Đức Gioan Phaolô II đưa ra lý lẽ rằng “xã hội phải được cơ cấu theo một cách sao cho các bà vợ và các bà mẹ trong thực tế không bị bắt buộc phải làm việc bên ngoài nhà” (Familiaris Consortio 23).

 

Đây không phải là một hy vọng phi hiện thực. Các luật lệ có thể chấm dứt việc gây bất lợi cho các phụ nữ ở nhà. Như một xuất phát điểm : miễn giảm thuế liên bang và địa phương lớn hơn có thể được hướng lại đối với các gia đình có con cái ăn theo; quy vùng các luật lệ có thể cho phép sử dụng lớn hơn nhà cửa như là một nơi làm việc; các gia đình dạy học tại nhà có thể được giảm một phần thuế bất động sản nào đó; và những thứ đại loại như thế. Quan trọng hơn hết, các phụ nữ và chống họ sẽ phải tái khám phá vẻ đẹp của thiên chức làm mẹ. Vừa qua một cặp vợ chống mà chúng tôi biết, đã tìm kiếm lời khuyên từ linh mục Anh giáo của họ để hỏi liệu họ có nên thử có mang đứa con thứ ba hay không. Vị linh mục nầy khuyến khích họ làm như thế, trong khi ngài đã cố vấn cho nhiều phụ huynh – vốn hối tiếc vì không có thêm con cái – ngài chưa hề gặp một cặp vợ chồng nghĩ rằng họ đã nuôi dưỡng quá nhiều con cái. Tuy vậy, rất ít cặp vợ chồng muốn tiếp tục con đường nầy, khi cả hai cha mẹ theo đuổi một nghề làm toàn thời gian ở vào tuổi ba mươi. Con cái là một phúc lành; chào mừng con cái đòi hỏi chúng ta điều chỉnh thói quen tiêu pha. Nếu chúng ta thực sự nghĩ rằng việc nuôi dạy con cái là một công việc cao quý hơn là tích luỹ của cải, thì có thể những cặp vợ chồng trẻ sẽ phải giảm những hy vọng kinh tế. Tóm lại, các tín hữu Công Giáo sẽ cần học hỏi lại để xử lý tốt không chỉ đối với hôn nhân truyền thống, mà còn cả với việc có nhiều con cái. Vì, không chỉ có sự phát triển con người đòi hỏi một kinh tế lành mạnh và một xã hội có tổ chức ổn định; nó còn đòi hỏi tình yêu. Và không có con đường nào tốt hơn để học biết làm sao để yêu thương hơn là trong một gia đình mở rộng cho sự sống.

 

Những gia đình đông người có thể thúc đẩy sự thánh thiện vì nhiều lý do. Đối với các phụ huynh, đây là ba lý do : ngủ ít hơn, chi tiêu nhiều hơn và làm việc nhiều hơn. Ba lý do lớn nầy, một số người có thể nói, tất thảy đối với việc chủ tâm tránh có con cái. Và nhiều người làm như thế. Nhưng sẽ không, nếu đích nhắm của bạn là thiên đàng. Quả thật, những hoa trái của tình yêu hôn nhân vốn sản sinh những điều kiện mà các thầy tu và nữ tu phải chấp nhận qua ân sủng (nghĩa là chấp nhận những lời khuyên khó nghèo,khiết tịnh và vâng lời). Có một câu chuyện nỗi tiếng từ cuộc đời của Thánh Nữ Têrêxa Lisieux ở Dòng Kín Carmel. Trong tu viện, chiếc chuông là tiếng kêu gọi chung giờ cầu nguyện. Sự vâng lời của Thánh nữ Têrêxa mau lẹ đến độ ngay khi nghe tiếng chuông đàu tiên,ngài bỏ ngay bút xuống, bỏ ngang một chữ đang viết dở dang trên trang giấy.Tiếng kêu của một đứa con giống như tiếng chuông của Thánh Nữ Têrêxa. Nó thường rung lên.

 

Không còn nghi ngờ gì nữa, việc ở nhà không phải luôn thành công đối với một bà mẹ trẻ . Cũng không phải tất cả các cặp vợ chồng mở ra cho sự sống đều được chúc phúc với con cái. Những sự thiếu vắng nầy là một nguyên do đau buồn thất vọng cho những phụ huynh như thế. Đáng tiếc, ngày càng có nhiều cặp vợ chồng nhìn thấy cái được trong những gì mà thời gian qua đã nhận ra như là một sự mất mát. Trong hầu như mọi nền văn hoá con người, những gia đình đông con là một dấu chỉ phúc lành. Theo Giáo Lý, họ vẫn là : “Kinh Thánh và thực hành truyền thống Giáo Hội nhìn thấy nơi những gia đình đông con một dấu chỉ Chúa chúc phúc lành và sự quảng đại của các phụ huynh” (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo 2373). Con cái chúc phúc cho cha mẹ và họ hàng, vì chúng giữ niềm vui dễ lây truyền; con cái chúc phúc cho các anh chị vì chúng mang đến tình bạn gần gũi; con cái chúc phúc cho cha mẹ, trên hết là vì chúng biến cha mẹ thành người lớn. Không như bất kỳ quà tặng nào khác, một đứa con nhỏ mới mang đến cho cha mẹ cơ hội lớn lên trong tình yêu. Việc trao đổi những quà tặng như vậy chỉ có thể có được khi một người nam và một người nữ mở rộng lòng mình ra với sự sống mới. Giáo Hội tiếp tục quý trọng những ai làm như thế.

 

Kể từ khi chủ nghĩa Marx ra đời vào nửa thế kỷ 19 cho đến khoảng năm 1980, người ta gần như hoàn toàn thừa nhận rằng nghiên cứu khoa học xã hội là bạn của các nhà thiết kế xã hội khuynh tả. Rất dớm các khoa học xã hội đã chọn giả thuyết của Marx rằng các quan hệ xã hội không mang đặc điểm bình đẳng vật chất hoàn toàn thì đều là bất công. Nghiên cứu bằng thống kê và thực nghiệm được chào đón như những phương tiện để nhổ bật thành kiến và tính phi lý mà các cơ chế truyền thống được đặt nền móng trên đó. Trên hết, – lập luận tiếp tục – gia đình,và cùng với nó là những vai trò của nam giới và nữ giới, sẽ có thể được phơi bày như không có chỗ dựa trong tự nhiên.

 

Tất cả những điều nầy đã thay đổi.

 

Nhiều nhà xã hội học vẫn trung thành với các chính sách cơ bản. Nhưng sự kiểm soát của họ về ngành nầy đã được nới lõng. Từ nhiều năm qua cho đến nay, các nghiên cứu khoa học xã hội liên quan đến gia đình đã giúp soi sáng “những mặt mạnh, tính không thể thay thế được của gia đình”. Trả lời cho Engels, de Beauvoir, MTV và công ty, bài dạy Giáo Lý sẽ phải sử dụng một cách tự tin hơn sự nghiên cứu phong phú có được trên những lợi ích gia đình mang lại. Như lý trí và mạc khải làm chứng, sự kết hợp những con người được đặt nền tảng không phải trên sự bình đẳng trừu tượng, mà là trên một sự sẵn sàng tự nguyện phục vụ Chúa Kitô nơi nhau. Trong sự canh tân nền văn hoá Công Giáo, cuộc chiến đấu bắt đầu tại nhà, trên đầu gối uốn cong.

 

—————————————
Nguyên tác : THE LONG WAR AGAINST THE FAMILY.
(*) Ryan N.S.Topping là một nghiên cứu sinh của Trường Cao Đẳng Khoa Học Nhân Văn Thomas More. Có bằng tiến sĩ thần học từ Đại học Oxford. Tác giả cuốn Rebuilding Catholic Culture : How the Catrchism Can Shape Our Common Life (mà bài viết trên đây được trích ra).
Bài chuyển ngữ gộp ba phần :
§ The Long War Against the Family (Part III) 30/01/ 2013
§ The Long War Against the Family (Part II) 29/01/ 2013
§ The Long War Against the Family (Part I) 28/01/2013

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.