Uncategorized

Cuộc chiến trường kỳ chống lại gia đình (2)

Đợt sóng thứ hai cũng chấp nhận lập luận của chủ nghĩa Marx rằng công bằng đòi buộc sự bình đẳng tuyệt đối về vật chất. Nhưng tiếp theo, ngón tay đang vẫy lại hường từ những người đàn ông sang trẻ em. Nếu nữ giới muốn có tình dục với nam giới (theo dòng suy tư nầy), thì họ phải không bị trách phạt với con đẻ ngoài ý muốn.

 

Đợt sóng thứ hai cũng chấp nhận lập luận của chủ nghĩa Marx rằng công bằng đòi buộc sự bình đẳng tuyệt đối về vật chất. Nhưng tiếp theo, ngón tay đang vẫy lại hường từ những người đàn ông sang trẻ em. Nếu nữ giới muốn có tình dục với nam giới (theo dòng suy tư nầy), thì họ phải không bị trách phạt với con đẻ ngoài ý muốn.

 

Phần nhiều, việc ngừa tránh thai nhân tạo được coi là vòng đai phòng thủ thứ nhất, nhưng từ ban đầu, nạo phá thai đã luôn là sự hỗ trợ. Sự kết nối giữa ngừa tránh thai, bình đẳng kinh tế và tiếp cận với nạo phá thai được thực hiện công khai năm 1992 do Toà án Tối cao Hoa Kỳ phán quyết về Kế hoạch hoá Gia đình chông lại Casey, vốn bảo vệ phán quyết năm 1973 trước đó ủng hộ nạo phá thai trong vụ Roe chống lại Wade bằng những lời đáng ghi nhớ nầy :

 

Hạn chế của luật Roe về quyền lực của bang không thể bị bác bỏ mà không có sự bât công đối với những người mà, đã hai thập niên phát triển kinh tế và xã hội, đã thiết lập những quan hệ tình dục và đã có những chọn lựa vốn xác định quan điểm của họ về nhau và vị trí của họ trong xã hội, dựa vào tính hiệu lực của việc phá thai trong trường hợp ngừa tránh thai thất bại. Khả năng để nữ giới tham gia một cách bình đẳng vào đời sống kinh tế và xã hội của Quốc gia nầy đã được tạo thuận tiện nhờ khả năng kiểm soát đời sông sinh sản của họ.

 

Sự dung thứ nạo phá thai được hợp pháp hoá là hậu quả nghiêm trọng nhất theo sau một khi người ta chấp nhận ngừa tránh thai, nhưng không chỉ một mình nó. Năm 1930, Anh giáo là tổ chức Kitô giáo đầu tiên tán thành việc sử dụng ngừa tránh thai nhân tạo. Và tiếp theo từ điều nầy, nguyên Tổng giám mục Canterbury, Rowan Williams, cũng lưu ý rằng nói đồng ý với bao cao su là đánh mất quyền lên án thói giao hợp qua hậu môn. Tách tình dục khỏi việc sinh sản và những kết hợp đồng tính trở nên tương đương với những kết hợp giữa hai người khác phái. Để đạt mục đích nầy, Williams đã kết luận:

 

Trong một giáo hội chấp nhận tính hợp pháp của ngừa tránh thai, thì việc lên án tuyệt đối các quan hệ giao hợp đồng tính phải dựa trên hoặc là một triển khai chính thống trừu tượng một số văn bản Kinh Thánh rất mập mờ, hoặc là dựa trên một giả thuyết mơ hồ và không Kinh Thánh về sự bổ túc tự nhiên, được áp dụng một cách tỉ mỉ và lỗ mãng cho sự phân biệt về thể lý mà không quan tâm đến cac câu trúc tâm lý.

 

Lô-gic của vị tổng giám mục Anh giáo là có cơ sở, tất nhiên – bao lâu mà người ta còn chấp nhận giả thuyết nầy. Trong một giáo hội đã chấp nhận ngừa tránh thai, thì việc khiển trách các kết hợp đồng tính nam đúng là độc đoán. Mặc dù các tín hữu Công giáo La Mã nay đứng trơ trọi một mình như là khối Kitô giáo duy nhất đồng thanh bác bỏ ngừa tránh thai nhân tạo, trước khi mọi khối Kitô giáo năm 1930 – và nhiều tổ chức tôn giáo khác – chống lại nó như là một sự sỉ nhục đối với nhân phẩm. Việc đình triệt sản tạm thời hay vĩnh viễn một người nam hoặc một người nữ khoẻ mạnh không chỉ làm mất giá trị hành vi vợ chồng, mà còn huỷ hoại sự kết hợp nầy như nó vốn là. Như Mahatma Gandhi đã cảnh báo năm 1925, “Tôi thúc giục những người ủng hộ các phương pháp kiểm tra sinh đẻ nhân tạo hãy xem xét các hậu quả. Bất cứ sự sử dụng rộng rãi nào các phương pháp nầy cũng sẽ dẫn tới việc sự tan rã của giao ước hôn nhân”.

 

Trong bất cứ sự kiện nào, phong trào ưu sinh và chống lại sinh sản do Margaret Sanger (1879 – 1966) phổ biến và được duy trì qua Kế hoạch hoá gia đình, đã thành công áp đảo đến nỗi sẽ đòi hỏi nỗ lực to lớn để đánh thức những sức tưởng tượng của giới trẻ về một thế giới nơi mà con cái không bị coi như là một gánh nặng xã hội và kinh tế. Sự chuộc tội nào sẽ bị đòi buộc đối với sự tàn sát hàng loạt những con cái bé nhỏ của chúng ta, thì quả là khó lòng tưởng tượng được. Ngoài sự làm cho lương tâm của mỗi chúng ta nên chai đá, chúng ta nay chỉ mới bắt đầu chịu những cái giá xã hội cho việc sát hại. Châu Âu đã bước vào mùa đông dân số, những gì Trung Quốc sẽ trải nghiệm một khi ảnh hưởng đầy đủ của việc quét sạch một thế hệ con gái được cảm nhận, người ta khó lòng mà đoán được. Trước hết hướng về chống lại nam giới và sau đó chống lại con cái, ngày nay đợt sóng thứ bacủa cuộc tấn công vào gia đình nhắm trực tiếp tới nữ giới.

 

Chính từ đợt sóng thứ ba mà những tuyên bố về giới tính ngày càng kỳ dị hơn đang được loan báo và lời khẳng định kì dị nhất trong mọi khẳng định là: giới tính là viễn vông. Với một thế hệ, sinh viên năm thứ nhất đã học lẫn tránh một cách ngoan ngoãn khi được nói rằng “giới tính” là một giải thích xã hội. Từ ngữ giới tính nhắc tới một khái niệm xã hội. Nhưng chỉ duy nhất các từ mới có giống đực, giống cái, thậm chí cả giống trung tính: con người có giống đực và giống cái. Những người đấu tranh nữ quyền (và nhiều Kitô hữu) quen biện luận cho quyền đi bầu của nữ giới trên bình diện mà nam giới và nữ giới chia sẻ một bản chất chung. Nay họ khẳng định một tính phi lý nữ tính rõ rệt và mặc nhiên phủ nhận một bản tính con người chung.

 

Vế số điểm ghi được nầy, mũi nhọn của phong trào nữ quyền đã đi được những khoảng cách mênh mông kể từ cuốn A Vindication of the Rights of Women [Một xác minh Nữ Quyền.ND] (1792) của Mary Wollstonecraft. Nhìn chung, ngày nay những người đấu tranh nữ quyền đã thay đổi chiến lược về căn bản các tuyên bố của họ đi theo những kiểu cách gần đây nhất của triết học hậu hiện đại. Như thế, học giả được hoan nghênh rộng rãi, Luce Irigaray, bênh vực tình trạng đặc quyền của nữ giới không phải trên nền tảng lý trí, mà là trên căn bản chối từ lý trí. Hãy kể ra một ví dụ, trong tác phẩm This Sex Which Is Not One (Giới tính nầy vốn không phải là Độc Nhất) của Bà, chúng ta nghe thấy rằng “Những lời của nàng là những lời mâu thuẫn, ở mức độ nào đó điên rồ ngay từ quan điểm về lý trí, không thể nghe được đối với bất cứ người nào nghe họ với những toạ độ làm sẵn, với một tập hợp các chuẩn mực được soạn thảo đầy đủ trong tay”. Bất cứ điều gì tác giả nầy mong khẳng định, bà tỏ ra từ chối cho nữ giới chia sẻ tính hợp lý với họ. Đây là điều đáng tiếc nhất. Với một điều, không tham gia vào lý trí, có rất ít để đặt nền tảng cho nguyên lý bình đẳng giữa các giới. Cũng tương tự, việc lập luận rằng nữ giới tham gia vào những “sự hợp lý” khác nhau, chỉ có thể làm giảm bớt hạnh phúc của nữ giới – vì đa số ước ao chia sẻ một thứ tình thân nào đó với nam giới. Một thế giới trong đó ngững người nam và những người nữ không cùng chia sẻ một lý trí chung, có khả năng khiến cho một số đồng tính nữ cảm thấy thoải mái hơn; nhưng nó sẽ có thể là thế giới nhỏ hơn nhiều để hưởng thụ, mà không có tình thân có ý nghĩa giữa anh chị em, giữa vợ chồng, giữa mẹ và con trai. (Irigaray ít ra cũng dường như tin rằ g hạnh phúc của một phụ nữ được đáp ứng tốt hơn khi tách khỏi gia đình). Không mong bị phân loại bởi những cái nhãn làm sẵn những nhận dạng đồng tính, khác giới tính hoặc chuyển giới, Irigaray đề xuất cái đã được đặt cho tên là “thú nhục dục đa hình thái”. Việc xây dựng những nhà vệ sinh công cộng sẽ không bao giờ giống nhau.

 

Nếu ý thức hệ giới tình được chấp nhận, không chỉ những phòng thay quần áo (có tủ khoá) sẽ bị tháo đi; gia đình cũng sẽ như thế. Các Kitô hữu, tín đồ Do Thái giáo, tín đồ Hồi giáo và những người bảo thủ cựu trào, đã mở rộng quá nhiều sự bao dung đối với những người thiết kế giới tính. Như Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhận định gần đây trong bài giảng lễ Giáng Sinh, khái niệm gia đình thực sự và sự an toàn của con cái mới là vấn đề. “Nhưng nếu không có một tính hai mặt được quy định trước về người nam và người nữ trong công cuộc tạo dựng, thì gia đình cũng không còn là một thực tại được công cuộc tạo dựng thiết lập. Cũng vậy, đứa con đã mất vị trí nó đã chiếm cho đến nay và phẩm giá gắn liền với nó”.

 

Chúng ta phải hiểu những đợt sóng ấy như thế nào? Chúng ta bắt đầu gỡ bỏ thiệt hại đã xảy ra trong cuộc chiến trướng lỳ chống lại gia đình nầy ra sao?

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.