Uncategorized

Chọn người con?

Có một ông nhà giàu kia. Ông có thú vui sưu tầm các bức danh họa trên thế giới. Những người đến thăm ông đều phải trầm trồ trước những bức tranh của Picassos mà ông đã không tiếc tiền mua chúng về treo. Ông có một đứa con trai duy nhất. Khi đến tuổi trưởng thành, chàng trai bị gọi nhập ngũ. Trong một trận chiến, anh đã anh dũng hy sinh khi cố gắng cứu mạng cho một đồng đội.

Có một ông nhà giàu kia. Ông có thú vui sưu tầm các bức danh họa trên thế giới. Những người đến thăm ông đều phải trầm trồ trước những bức tranh của Picassos mà ông đã không tiếc tiền mua chúng về treo. Ông có một đứa con trai duy nhất. Khi đến tuổi trưởng thành, chàng trai bị gọi nhập ngũ. Trong một trận chiến, anh đã anh dũng hy sinh khi cố gắng cứu mạng cho một đồng đội. Nhớ ơn anh, và biết người cha là một người thích tranh, người đồng đội được cứu sống đã vẽ lại bức tranh ghi lại hình ảnh hào hùng của người con để tặng cho người cha.

Một thời gian sau, người cha cũng qua đời và người ta bán đấu giá những tài sản của ông. Nhiều người từ khắp nơi trên thế giới tuốn đến mong có thể mua được những danh họa có một không hai.

Người trọng tài trong cuộc đấu giá bắt đầu bằng cách nói: “Chúng ta hãy khởi đầu từ bức tranh của người con”.

Một sự im lặng khó chịu bao trùm căn phòng đấu giá. Một tiếng nói cất lên: “Bỏ qua chuyện đó đi. Bức tranh đó do một tay hoạ sĩ nghiệp dư vẽ có đáng gì mà đấu giá. Ðấu mấy bức của Picassos hay Rembrandts đi”.

Tuy nhiên, người trọng tài vẫn không nhượng bộ: “Không, chúng ta phải bắt đầu bằng bức tranh người con trước. Ai muốn lấy bức tranh của người con”.

Cuối cùng, một giọng nói cất lên từ cuối phòng: “Mười đồng”. Ðó là tiếng người làm vườn già nua. Mười đồng là tất cả khả năng mà người làm vườn có thể trả nổi.

“Có người trả mười đồng. Có ai trả hơn không? Có ai trả hai mươi đồng không?”

Một sự im lặng nặng nề lại bao trùm, hy vọng bức tranh được bán cho mau để chuyển qua những món khác.

“Mười đồng lần thứ nhất. Mười đồng lần thứ hai. Mười đồng lần thứ ba. Bán”.

Người trọng tài gõ búa xuống. Ông xé một bao thư đi kèm với bức tranh. Ðọc xong, ông tuyên bố với mọi người: “Cám ơn quý vị đã đến đây hôm nay. Cuộc đấu giá đã kết thúc”. Người trọng tài giải thích: “Nội dung bức thư của chủ nhân dặn rằng hễ ai mua bức tranh người con thì sẽ được tất cả tài sản, đất đai, tiền bạc và tất cả các bức tranh. Người cha đã muốn trao tặng tất cả cho những ai chấp nhận người con”.

Kính thưa,

Giả sử hôm nay chúng ta cũng mở một cuộc bán đấu giá. Mặt hàng được trưng bày ở đầy là: tiền bạc, danh vọng, thú vui trần thế, và Ngừơi con Một duy Nhất của Thiên Chúa là Ðức Giêsu. Các bạn sẽ chọn lựa điều gì? Các bạn sẽ dùng hết gia tài, và dùng hết khả năng của mình để đạt được điều gì?

Thánh Augustinô đã đạt đến đỉnh cao của danh vọng, đã trải qua biết bao thú vui của trần thế, nhưng lòng thánh nhân vẫn khắc khoải tìm kiếm một điều gì đó vượt lên trên các thụ tạo, và sau này được ơn trở lại, thánh nhân mới thú nhận rằng: “lòng con luôn khắc khoải cho tới khi được gặp Ngài, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Tổng thống Francois Mitterand được nước Pháp được coi là Chúa tể vì 14 năm luôn làm xếp. Oạng đã thống nhất được  Châu. Danh vọng quyền uy ông không thiếu, nhưng cuối cùng ông thú nhận: “Một lúc nào đó bỗng nhiên người ta cảm thấy trơ trọi một mình, mất hút trong thế giới mênh mông”. Chúng ta biết khi ông chết ông xin đừng chôn ông vào chỗ danh dự anh hùng nước Pháp, mà xin với cha sở một xứ đạo miền quê, nơi ông đã được rửa tội, xin cho ông được an nghỉ nơi đất mẹ, nơi ông được sinh ra và làm người làm con Thiên Chúa. Nghĩa là ông muốn chọn Thiên Chúa, chứ không chọn vinh hoa trần gian.

Người thiếu phụ bên bờ giếng Giacob mà tin mừng Chúa Nhật thứ III mùa chay, thánh Gioan đã cho chúng ta thấy. Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín nước. Nhưng uống nước này là tự đầy đoạ mình. Dù chưa nhận ra, nhưng chị ta vẫn thao thức và bị dày vò vì một cơn khát nào đó mà những mối tình trần tục đã không giải khát nổi, đã không làm dịu đi chút nào, càng đi sâu vào biển tình càng thấy thiếu thốn.

Thánh Gioan đã nói “vì chị đã có 5 đời chồng”. Không có nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là năm mối tình bất chính, và cả người thứ sáu cũng không thực sự là chồng. Chị là một phụ nữ trắc nết, bị xóm ngõ khinh miệt, loại trừ, chị phải đi kín nước vào giữa trưa hè nắng thay vì ban sáng hay chiều hôm như bao phụ nữ khác. Chị đi vào giờ này là để tránh gặp mặt hàng xóm láng giềng. Nhưng không ngờ chị lại gặp Chúa Giêsu “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị cho tôi xin nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống. Ai uống nước này sẽ không còn khát nữa.

CGS đã dẫn dắt chị đi từ một ý niệm cụ thể vật chất đến siêu nhiên. Từ việc chính Chúa khát nước giữa trưa hè nắng đổ lửa đến một sự khát bỏng của tâm hồn khô cạn ơn thánh. Người thiếu phụ này hằng khao khát hạnh phúc và chị đã tìm sự thoả mãn trong những thú vui xác thịt, nhưng vẫn không thoả mãn cơn khát trong lòng chị.

Cuộc đời chị là một thất bại dài đầy nghiệt ngã thất vọng. Cho đến khi gặp được Ðấng Kytô , chị ta mới nhận ra. “Còn ai uống nước tôi ban sẽ không bao giờ khát nữa”. Thế là tâm hồn chị được tha thứ, được rửa sạch và đã khát, chị chẳng cần đến giếng Giacob và nước nữa, chị thoăn thoắt chạy vào thành báo tin cho biết có thứ nước sống trường sinh mà mọi người đang khao khát, đó là Ðấng Kytô là Thiên Chúa cứu độ là Ðấng Messia họ đang mong đợi “chính Ta là Ðấng đang nói với chị đây”.

Nhìn vào thế giới hôm nay, ta thấy có biết bao cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác thịt, của TIỀN TÀI danh vọng đã đẩy biết bao người vào hố sâu của vực thẳm. Càng ngụp lặn trong vực thẳm càng làm họ cho trở nên điên rồ đánh mất nhân cách, đánh mất tính người. Họ đã lầm, vì tất cả những thứ đó không bao giờ làm cho họ thoả mãn được. Ðược voi đòi tiên. Lòng tham vô đáy. Họ chỉ bắt được bóng chứ không bắt được mồi. Giếng sâu của tội lỗi chỉ làm cho con người thất vọng, chán chường. Con người vẫn khao khát một điều gì đó vượt lên trên những ảo ảnh trần gian.

Nếu phải đánh đổi cuộc đời, bạn sẽ đánh đổi vì đồng tiền, vì danh vọng, vì thú vui xác thịt hay vì Ðức Kytô. Một Maria Goretti đã từ chối quan hệ bất chính, chấp nhận cái chết để giữ lòng trong sạch. Một Giám mục Cassien đã bỏ ngai toà Giám mục để sống và chết tại trại cùi Di Linh. Một Têrêsa đã bỏ Châu Aạu tráng lệ để đến phục vụ những người nghèo khổ, bất hạnh sống lây lất trên đường phố thành Calcutta. Các ngài đã đánh đổi cuộc đời mình vì ai? Không ai khác ngoài Ðức Kytô, chỉ có Ðức Kytô mới có thể làm thoả mãn mọi khát vọng cho con người, và cũng chỉ vì Ðức Kytô người ta mới dám hy sinh, dám quên mình để phục vụ Ðức Kytô trong những người nghèo. Chọn người con nghĩa là ta chọn một gia tài vĩnh cửu mà người Cha đã hứa ban cho những ai “tin vào Người con”. Hay đúng hơn, gia tài đó sẽ dành phần cho những ai đã được chính cái chết của người con cứu chuộc. Với mỗi người trong chúng ta, Thiên Chúa hỏi thẳng chúng ta rất rõ ràng, không úp mở: “Ngươi có chấp nhận Con Duy Nhất của ta không? Ai chấp nhận Con ta thì được mọi sự”. Chắc chắn rằng trong cuộc đấu giá trên, nếu người ta biết rõ nội dung bức thư, mọi người sẽ giành giật để đấu cho được bức tranh của người con. Còn chúng ta, chúng ta biết rất rõ ý định Thiên Chúa mà chúng ta lại không chấp nhận người Con thì chúng ta quả là dại dột.

Vì mục đích cuộc sống này là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Sống là để đi tìm hạnh phúc. Hỏi một người tình nguyện đi bộ đội và một người trốn không đi, thì cả hai đều là chọn hạnh phúc. Hỏi một người đi tu và một người không đi tu lấy vợ lấy chồng thì cả hai cách sống cũng là mong có hạnh phúc. “tu là cõi phúc ố tình lê mê ly”. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ có ở trong Thiên Chúa. Những hạnh phúc của tiền, tình và quyền chỉ là tạm thời không vĩnh cửu, có khi còn là nỗi khổ cho người thừa hưởng nó. Người giầu cũng khóc, người yêu cũng khổ, càng yêu càng khổ. Hay có khi ở trên đỉnh cao của danh vọng mà phải chà đạp lên người khác, bị người đời khinh chê thì đó cũng là sự bất hạnh đáng thương. Nói ra điều này, chắc có người sẽ bảo rằng: biết rồi khổ lắm nói mãi. Nhưng xem ra đồng tiền và những của lạ thế gian vẫn hấp dẫn hơn là nước trời vĩnh cửu.

Người ta kể rằng có một người thợ đào vàng chết và lên thiêng đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phêrô hỏi:

– “Ở trần gian con làm nghề gì?
– Anh ta thưa: con làm nghề đào vàng
– Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.
– Thưa Ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.

Vì tò mò nên thánh Phêrô cũng cho bước vào. Anh ta đảo một vòng thiên đàng mới nhận ra những khuôn mặt quen thuộc cùng nghề. Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Còn lại một mình anh, đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phêrô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phêrô bảo: đừng mơ đó là sự thật, chẳng có mỏ vàng nào đâu. Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính tôi phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao! Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở lại. Nói xong, anh nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục. Lòng tham của con người thật không cùng, sẵn sàng hy sinh cả hạnh đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.

Hạnh phúc chỉ có ở trong Thiên Chúa là ỏ trong sự thật, ở trong lẽ phải, trong luân thường đạo lý làm người. Người ở trong Thiên Chúa là người sống theo đường lối, lề luật của Thiên Chúa. Con người có tự do, nhưng tự do đích thực là đi theo sự thiện, đi theo lẽ phải. Thực sự là vậy, khi chúng ta phạm tội là chúng ta mất tự do, khi chúng ta đi ngược với luân thường đạo lý, ngược với lẽ phải của lương tri con người là chúng ta mất tự do, trở thành nô lệ của ma qủy của thúc vui xác thịt.
Kinh nghiệm của Adam – Evà cho thấy, họ chỉ có thể hạnh phúc và từ do khihọ sống theo lề luật của Thiên Chúa. Ngày mà Adam – Eva quyết định giơ tay lên hái trái cấm, là ngày họ trở thành nô lệ ma qủy. Tội lỗi làm họ không có an tâm khi nghe tiếng chân Chúa bên vườn địa đàng. Tội lỗi làm họ e thẹn khi đứng trước mặt nhau. Họ phải lấy lá che thân và ẩn mình trốn tránh Thiên Chúa. Tội lỗi của Adam, của một con người mà còn liên lụy đến con cháu đời đời, sinh ra đau khổ và chết chóc. Một định luật tất yếu của đời người.

Con cháu Adam –  Evà hôm nay cũng thế. Khi chúng ta đi sai lề luật Chúa là chúng ta đang giết chết đời mình.

Mùa Chayámời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi thường khao khát những gì? Tôi đã tìm được chúng chưa? Chúng có làm tôi thỏa mãn không? Tôi có ý thức cơn khát thiêng liêng mà chỉ có Chúa mới xoa dịu được không?

Ước mong trong NĂM giáo dục Gia Ðình, chúng ta hãy dành thời giờ chiêm ngắm tình yêu hiến dâng của Chúa Kytô. Ngài đã yêu bạn, đã chết vì bạn để bạn cũng biết đối xử tốt với tha nhân, biết trân trọng tình yêu của tha nhân dành cho bạn. Bạn chọn Chúa, bạn chẳng mất mát gì? Công danh, sự nghiệp, sức khoẻ của bạn vẫn có đó, nhưng bạn còn hạnh phúc hơn nữa, vì có thêm Chúa là bạn đồng hành, một vị quân sư tài ba đang hướng dẫn cuộc đời bạn đi trong chân lý, bình an và hoan lạc.

“Lạy Ðức Giêsu, con chọn Ngài. Xin sống trong con để con thấy được tự do trong vâng phục và niềm vui là môn đệ Ngài”.

 

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.