Và có lẽ đã đến lúc tôi cần điều chỉnh lại vị trí của Ngài trong đời sống tâm linh tôi. Một vị thánh cao cả trước mặt Thiên chúa, thập phần đáng kính trọng của Đức Mẹ, “Phó Vương” nước Trời, nhưng tới nay vẫn còn đóng một vai trò khá khiêm tốn nơi tôi, và chưa được sùng kính đúng mức.
Là gia trưởng trong một gia đình cao trọng và quyền năng, lẽ ra Thánh Danh Giuse cùng đồng hành với Thánh Danh Giesu và Maria trong Phúc Âm. Nhưng cũng như Đức Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse yêu qúi sự khiêm hạ, ẩn dật. Do vậy, Ngài đã trở thành nhân vật ẩn mặt, câm nín trong Phúc Âm. Phải chăng vì thế, Thánh Cả Giuse đã trở nên ít quan trọng đối với chúng ta, và thường được gọi bằng danh xưng cũng bình thường như các vị thánh khác: Thánh Giuse? Phải chăng vì thế mà Thánh Danh Giuse ít được chúng ta kêu cầu hơn, ngay cả so với một số vị thánh khác, trong khi Thánh Danh Giuse làm cho ma qủi khiếp sợ nhất, sau Thánh Danh Giesu, Maria? Và phải chăng vì thế mà những hình ảnh vẽ về Thánh Cả thường là dưới dạng một vị đã đứng tuổi, râu tóc bạc phơ, ẵm Chúa Hài Đồng, hiền lành với cành Huệ trắng trên tay, đầu đội triều thiên được kết bằng hoa đủ màu?
Nếu “Khi nghe tên thánh Chúa Giesu, các tầng trời bừng sáng, các tà thần chạy trốn”, thì uy lực này cũng đã được Thiên Chúa ban cho Thánh Danh Maria và Giuse. Trong chương trình cứu chuộc nhân loại, chúng ta tin tưởng Thiên Chúa đã nghĩ đến Thánh Cả Giuse chỉ sau Đức Mẹ, vì Thánh Cả sẽ giữ một vai trò rất quan trọng khi Ngôi Lời nhập thể làm người. Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị chu đáo cho vai trò của vị sẽ thay thế Ngài trong vai trò cha nuôi, để yêu thương, chăm sóc Con Yêu Dấu Ngài. Thánh Toma tiến sĩ tin tưởng Thánh Cả Giuse đã được khỏi tội tổ tông ngay khi còn trong lòng mẹ. Niềm tin này đã được Đức Mẹ xác nhận khi Mẹ mạc khải cho thánh nữ Agreda trong Thần Đô Huyền Diệu (1) rằng, Thánh Cả Giuse được sạch tội tổ tông khi thai nhi được 7 tháng! Thiên Chúa thường luôn cho các việc Ngài an bài được thực hiện một cách tự nhiên. Do đó, Ngài không muốn để xảy ra trước mặt mọi người sự kiện một trinh nữ độc thân… sinh con! Ngôi Lời phải được sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha, dù là cha nuôi.
Từ trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã vẽ lên một Giuse khôi ngô, tuấn tú, tài đức vẹn toàn, mà theo các giáo phụ và những vị thông thái trong Giáo Hội cho rằng, đó chính là hình bóng chỉ về Thánh Cả Giuse: Tổ phụ Gia Cóp sinh được 12 người con, nhưng ông lại ưu ái đặc biệt người con thứ 11 là Giuse. Vì ngay từ thuở niên thiếu, cậu đã tỏ ra rất thông minh, đĩnh ngộ. Ông đặt nhiều kỳ vọng vào người con này. Giuse có nghĩa là “Người lớn lên”. Ý nghĩa này thật đúng cho Giuse, vì sau này, giòng dõi Giuse đã sinh sôi nảy nở và trở nên hùng mạnh trên đất Ai-Cập. Ông đã trở nên một tổ phụ lớn. Viễn ảnh tươi sáng này đã được tỏ rõ trong những giấc mơ kỳ lạ của cậu. Mỗi lần như vậy, cậu đều thật thà kể lại cho cha và các anh nghe. Một lần cậu kể cho các anh như sau: “Trong khi các anh và em đang bó lúa ngoài đồng, bó lúa của các anh tự nhiên dựng đứng thẳng lên và lạy bó lúa của em!” Một người anh mới tức giận mắng: “Chẳng lẽ mày lại muốn làm chúa để cai trị chúng ta sao?” Lần khác, cậu kể cho cha và các anh nghe giấc mơ khác: “Thưa cha, con thấy mặt trời, mặt trăng, và 11ngôi sao phục lạy con!” Tổ phụ Gia-Cóp liền mắng yêu con: “Có lẽ cả cha lẫn mẹ cùng các anh em con sẽ phục lạy con?” Tình thương yêu đặc biệt của cha dành cho cậu, cũng như những giấc mơ cậu kể, đã làm cho các anh vô cùng ghen tức, và định bụng sẽ tìm dịp giết Giuse!
Thời cơ đã đến khi Giuse đem cơm cho các anh đang làm việc ở ngòai đồng xa. Các anh đã đem bán Giuse cho những người lái buôn Ismael trên đường đi Ai Cập. Tới Ai Cập, Giuse bị bán cho một vị quan giữ chức nội giám, cai quản các thị vệ vua Pharao. Với tính tình đoan trang, khuôn mặt tuấn tú, cùng tai ba, lanh lợi, Giuse đã thu phục được sự tín nhiệm, tin tưởng nơi quan nội giám. Ông đã trao phó cho Giuse trông coi toàn bộ gia sản của ông.
Dáng dấp thanh tú, hoạt bát của Giuse đã lọt mắt xanh của bà chủ, vợ quan. Nhiều lần bà dụ dỗ Giuse thông dâm với bà, nhưng đều bị Giuse thẳng thắn cự tuyệt. Một lần, trong lúc Giuse phải vào nhà để lo công việc. Lợi dụng lúc không có ai, bà chủ cuồng nhiệt nắm áo Giuse năn nỉ. Giuse vội vất bỏ áo khoác đang bị bà chủ nắm chặt, chạy ra ngoài, vì Giuse không thể vì nữ sắc mà lỗi phạm đến giới răn Thiên Chúa, và làm ô uế tấm lòng trong trắng của mình! Qúa bẽ bàng. Yêu bỗng trở thành hận. Bà lớn tiếng kêu khóc và gỉa vờ cầu cứu. Khi chồng về, bà cầm áo khóac như một tang chứng để tố cáo: “Thằng mọi Hipri của ông dở trò đồi bại đòi hiếp dâm tôi. Tôi kêu lên. Thấy động, nó vội bỏ áo choàng, chạy ra ngoài!” Vị quan vô cùng giận dữ, ông liền ra lệnh tống Giuse vào ngục thất.
Nhưng Javê đã không bỏ đầy tớ trung trực của Ngài, và Javê càng ban cho Giuse sự khôn ngoan, minh mẫn. Trong tù, Giuse đã giải mộng cho hai vị quan cùng bị giam với lời xin: Khi nào được ra khỏi đây, xin đừng quên tôi.
Đúng như lời giải thích của Giuse, một ông bị xử trảm, một được hồi chức. Ông được hồi chức quên ngay lời hứa trong tù. Cho nên Giuse tiếp tục bị giam cầm cho đến một hôm, vua Pharao mơ thấy một hiện tượng lạ. Vua cho mời các thày bói cùng những nhà thông thái tới giải mộng cho vua. Nhưng tất cả đều không giải được. Sau cùng, vị quan bị tù với Giuse liền nhớ lại lời hứa khi xưa, nên vội tâu vua về tài trí khôn ngoan của Giuse. Nhà vua cho gọi Giuse tới. Nghe nhà vua kể mộng xong, Giuse liền giải mộng, đại ý nói, giấc mộng cho biết: Thiên hạ sẽ được 7 năm trúng mùa, tiếp theo là 7 năm mất mùa. Vua và tất cả quần thần đều cho là lời giải chí lý. Chăm chú nhìn Giuse một hồi, rồi nhà vua phán: “Theo ý trẫm, trong dân Ai Cập không có ai có đủ khả năng và can đảm nhận lãnh trách nhiệm này. Đây là trọng trách đòi hỏi rất nhiều nghị lực, tinh thần khôn ngoan, sáng suốt. Nay trẫm đặt ngươi lên chức phó vương, để ngươi có đủ quyền mà lo cho dân nước.”
Đúng như Giuse đã đoán, dân Ai Cập được 7 năm trúng mùa liên tiếp. Giuse đã thảo ra kế hoạch tích luỹ lương thực thặng dư, để dành cho 7 năm mất mùa tiếp theo. 7 năm tiếp sau tuy dân chúng bị mất mùa, nhưng vì Giuse đã tiên liệu mọi sự, cho nên không những dân Ai Cập không bị đói, mà Giuse còn cứu được cả gia đình của cha mình. Câu nói của vua Pharao với dân chúng: “Hãy đến cùng Giuse!” đã trở thành câu bất hủ, được ám chỉ về quyền thế của Thánh Cả Giuse trước mặt Thiên Chúa.
Là gia trưởng của Thánh Gia là thay mặt Chúa Cha để chu toàn cho Hài Nhi Giêsu giáng trần, là thay mặt Chúa Thánh Thần để bảo vệ, chăm sóc cho Đức Mẹ. Trách nhiệm này đòi hỏi nơi Thánh Cả sự thánh thiện, trí khôn ngoan, và tính kiên định hơn biết bao, so với chức phó vương Ai cập.
Là gia trưởng của Thánh Gia là chấp nhận đi đầu trong thử thách, đối diện với cam go, vì Thánh Gia sẽ là gương mẫu cho các gia đình. Vì thế, đòi hỏi Thánh Cả phải có lòng mến mênh mông, tinh thần phó thác, đức tuân phục trọn hảo, và một đức tin vững như núi non.
Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Thánh Cả Giuse đã phải chạm trán đau khổ, thử thách ngay từ giai đoạn đầu của cuộc hôn nhân với Đức Mẹ.
Lập gia đình với Đức Mẹ là do thiên ý, để chuẩn bị cho Ngôi Lời nhập thể. Tất nhiên lúc đó Thánh Cả Giuse chưa hiểu đươc màu nhiệm này. Cho nên, vào thời kỳ hứa hôn, sau khi Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Isave ba tháng trở về. Thánh Cả Giuse nghe bà con lối xóm kháo láo với nhau rằng, Maria bạn Ngài đã có thai! (Theo tục lệ người Do Thái, dù ở thời kỳ hứa hôn, hai người vẫn có thể ăn ở với nhau như vợ chồng thực sự). Quả thật, bào thai cứ mỗi ngày lớn dần, không thể chối cãi! Bầu không trung đang trong sáng bỗng trở nên u ám. Giông bão bỗng ào ào kéo về. Vì chưa hiểu được việc Đức Mẹ Maria chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần, cho nên lòng Thánh Cả ngổn ngang trăm bề! Một mặt, biết Đức Mẹ Maria nết na vẹn toàn, không có điều chi chê trách. Nhưng thực tế lại cho những sự kiện mà với Thánh Cả lúc đó là không thể hiểu được. Chân Phước (Giáo Hoàng) Gioan Paulo II đã diễn giải về tình huống này trong Prayers & Devotions như sau:
“Đây là màu nhiệm nơi Đức Mẹ Maria. Thánh Cả Giuse đã không hiểu màu nhiệm đó. Đức Mẹ không thể truyền đạt màu nhiệm này cho Ngài, vì đó là màu nhiệm vượt quá sự hiểu biết và diễn đạt bằng miệng lưỡi loài người. Màu nhiệm này không thể truyền đạt bằng bất cứ phương tiện nào của con người. Con người cần chấp nhận và tin tưởng. Và Mẹ Maria đã tin tưởng. Thánh Cả Giuse chưa hiểu màu nhiệm này, cho nên Ngài đã phải vô cùng đau khổ.”
Sự hiểu lầm hay không thể hiểu được này đã đưa tới một quyết định ôn hòa và êm đẹp:
“Giuse chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà, thì định âm thầm ly dị. Sau khi ông đã quyết tâm như vậy, thì này, Thiên thần Chúa hiện ra với ông trong mộng, bảo rằng: 'Giuse con David, chớ sợ lấy Maria vợ ông, vì Thai Nhi trong lòng Bà là bởi Thánh Linh. Bà sẽ sinh con, và ông sẽ đặt tên Ngài là Giesu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội'. Vả mọi việc này xảy ra, hầu ứng nghiệm Lời Chúa đã phán bởi tiên tri rằng: 'Kìa gái đồng trinh sẽ thụ thai, sanh con trai, và gọi là Emmanuel: Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta.
“Khi Giuse tỉnh dậy, bèn làm theo lời Thiên Sứ của Chúa mà rước vợ về nhà.” (Mt. I, 19-24 )
Với lời giải thích của Thiên Thần, Thánh Cả Giuse được cởi mở tâm hồn, vì Thánh Cả đã hoàn toàn tin tưởng vào sự an bài của Thiên Chúa. Tình yêu và lòng kính trọng dành cho Đức Mẹ của Thánh Cả càng trở nên đậm đà, sâu thẳm.
Thời kỳ này mới chỉ là thời kỳ hứa hôn. Hôn nhân chỉ hòan tất với nghi lễ thành hôn. Thánh Cả Giuse biết rằng, mặc dù đây chỉ là hình thức của xã hội. Còn lòng Thánh Cả và Đức Mẹ vẵn luôn trong trắng, vẹn toàn. Nhưng Thánh Cả cũng lo chuẩn bị tổ chức cho xứng mặt với bà con. Không nói chúng ta cũng có thể hiểu lòng hai Đấng sau khi được giải tỏa khúc mắc, hân hoan, sung sướng đến mức nào, và lễ thành hôn chắc phải thập phần hạnh phúc, vui vẻ!
Thánh Cả Giuse dù nghèo túng, nhưng Ngài cũng lo chuẩn bị hết sức chu đáo để đón tiếp Ngôi Lời Nhập thể. Thánh Cả cũng chăm lo dọn lòng để được xứng đáng phần nào với thiên chức cha nuôi Con Thiên Chúa. Nhưng đoạn đường gian truân còn dài. Những gian nan thử thách đang chờ Thánh Cả. Biến cố về quê để kê khai dân số xảy ra đột ngột vào thời điểm Đức Mẹ gần sanh, đã gây biết bao lo âu, đau khổ cho Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse. Vì nghèo nên không ai chấp nhận cho trọ đêm. Cuối cùng, Thánh Cả đành dẫn Đức Mẹ ra trú nơi hang dành cho bò lừa ngoài cánh đồng. Sự kiện Herode đòi giết các hài nhi, khiến Thánh Cả đang đêm phải thức giấc đem Đức Mẹ và Chúa Giesu trốn sang Ai Cập. Tỵ nạn ở Ai Cập được vài năm, khi mọi sinh hoạt bắt đầu đi vào nề nếp, thì Thánh Cả lại được lệnh hồi hương! Biến cố lạc mất Chúa, khiến Đức Mẹ và Thánh Cả vô cùng lo âu, sầu khổ. Ba ngày dài như ba thế kỷ!
Mặc dù với bao thăng trầm của cuộc sống, Thánh Cả luôn cố gắng để chu toàn bổn phận của người gia trưởng một cách thật tuyệt vời. Sau này, khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giesu có lẽ đã liên tưởng tới người cha nuôi yêu dấu khi Chúa phán: “Vậy ai là tôi tớ trung trực và khôn ngoan, chủ đã đặt trên gia nhân của ông, để phân phát lương thực cho phải thời? Phúc cho đầy tớ đó, chủ đến và thấy nó đang làm như vậy. Quả thực tôi nói cùng các vị, chủ sẽ đặt người ấy lên cai quản tất cả của cải của ông!”(Mt. 24,45-47)
Thực ra, sự ẩn mặt của Thánh Cả Giuse trong Phúc Âm càng làm cho chúng ta cảm nhận được những nhân đức phi thường của Ngài hơn. Dù biết mình được diễm phúc làm bạn trăm năm của Đức Mẹ và làm cha nuôi Con Thiên Chúa. Nhưng Thánh Cả vẫn duy trì nếp sống ẩn dật, khiêm hạ. Thiên Chúa đã tưởng thưởng cho đầy tớ trung thành tuyệt đối này cách xứng đáng, bắt đầu bằng cái chết vô cùng êm ái, thánh thiện như lời Đức Mẹ kể trong Thần Đô Huyền Nhiệm.
Sau khi Chúa sống lại và lên trời, Giáo Hội sơ khai được thành lập, Ngài ta bắt đầu nói đến tên vị dưỡng phụ Đấng Cứu Thế. Khi các giáo phụ ra đời, các ngài bắt đầu tôn vinh Ngài: Ogigeno đề cao sự công chính mà Phúc Âm đã nói tới để ám chỉ về Thánh Cả Giuse. Gioan Kim khẩu ca tụng nguồn hoan lạc cũng như nỗi sầu khổ của Ngài. Augustino đã đặt viên đá nền cho vai trò của Thánh Cả. Còn Gregorio Nigianian đã mạnh dạn viết: “Như mặt trời làm nơi hội tụ của mọi nguồn sáng. Thiên Chúa đã kết hợp trong Thánh Cả Giuse tất cả huy hoàng và vinh hiển của mọi chư thánh.”
Từ thế kỷ thứ 12 trở đi, địa vị của Thánh Cả càng ngày càng được đề cao. Nhiều đấng thánh tin tưởng rằng, Thiên Chúa đã cho cả hồn lẫn xác Thánh Cả lên trời. Phúc Âm thánh Mattheu kể: “mồ mả mở toang ra, và xác của nhiều vị thánh đã yên nghỉ được sống lại” (Mt.IV,52-53), và trong lịch sử Giáo Hội, một số vị thánh đã được Thiên Chúa giữ gìn thân xác sau khi chết không bị hư thối, thì không lý gì Chúa Giesu sau khi lên trời cả Hồn và Xác, lại để thân xác Thánh Cả Giuse là dưỡng phụ yêu dấu của Ngài, vị công chính, đã được Thiên chúa Cha đặc tuyển, phải chịu số phận hư nát dưới lòng đất!
Trong số những vị thánh biệt tôn Thánh Cả Giuse, phải kể tới thánh nữ Teresa Avila Tiến Sỹ Hội Thánh. Ngài đã được tôn là “tông đồ của Thánh Cả Giuse”. Ngài nhận Thánh Cả Giuse làm bổn mạng các nhà dòng ngài sáng lập. Sau này, nhiều nhà dòng khác cũng làm theo như vậy. Riêng với thánh nữ, ngài đã nhận Thánh Cả làm mẫu gương đời cầu nguyện. Nên chẳng bao lâu, thánh nữ đã đạt tới trình độ rất cao trên đường trọn lành. Thánh nữ nói: “Như Thánh Cả Giuse, tôi chiêm niệm như trông thấy thế giới siêu nhiên”. Thánh nữ khuyên: “Ai muốn đạt tới mức cầu nguyện cao siêu, hãy đến cùng Thày Giuse!”
Đức Thánh Cha Pio IX, với công đồng chung Vatican I đã long trọng tôn phong Thánh Cả Giuse làm Đấng bảo trợ toàn thể Giáo Hội và đặt ngày lễ kính19/3 hàng năm lên hàng lễ trọng.
Đức Thánh Cha Leo XIII dâng trọn tháng Ba làm tháng kính Thánh Cả Giuse. Năm 1955, Đức Thánh Cha Pio XII đã ban hành quyết định dâng ngày 1-5 để kính nhớ Thánh Giuse Lao Động”, và tôn Ngài làm quan thày giới lao động. Nhiều vị Giáo Hoàng khác cũng đã ra nhiều tông huấn tôn vinh Thánh Cả Giuse.
Riêng nước Việt Nam cũng được vinh dự nhận Thánh Cả Giuse làm quan thày khi Đức Thánh Cha Innocent II, năm 1678 đã tôn Thánh Cả Giuse làm Đấng bảo trợ nước Việt Nam và các nước lân cận.
Cuộc sống gương mẫu và thánh thiện tuyệt hảo của Thánh Cả Giuse đã làm cho Ngài trở nên rất thần thế trước mặt Thiên Chúa và Đức Mẹ. Thánh Cả đã cứu giúp được không biết bao nhiêu người chạy đến kêu cầu Ngài. Ngoài tước hiệu quan thày Giáo Hội hoàn vũ, quan thày giới lao động, Giáo Hội còn đặt Ngài làm quan thày các kẻ hấp hối, Đấng bảo trợ các Linh Hồn trong Luyện Tội.
“HÃY ĐẾN CÙNG GIUSE!” Nếu lời kinh tán dương Đức Mẹ: “Xưa nay chưa có ai chạy đến cầu xin Mẹ mà không được nhận lời”, lời kinh này cũng dụng cho Thánh Cả Giuse vậy.
Một số hình thức sùng kính Thánh Cả Giuse phổ thông trong Giáo Hội:
– Sống ngày thứ Tư, ngày của Thánh Cả Giuse, nhất là thứ Tư đầu tháng.
– Đặc biệt sống theo gương Thánh Cả trong tháng Ba. Dọn mình xưng tội mừng lễ kính Thánh Cả ngày 19-3 và 1-5.
-Năng cầu nguyện lời nguyện tắt: “Giesu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các Linh Hồn” mà Chúa Giesu đã mạc khải cho Nữ Tu Consolata Betroné, nước Ý. Chúa hứa, mỗi lần đọc lời nguyện này với lòng yêu mến, sẽ cứu được một Linh Hồn.
Cành Huệ trắng hay cánh Đại Bàng!
Một Phượng Hoàng vĩ đại ngậm cành Huệ trắng, sải cánh uy lực tung bay về hướng Mặt Trời Cao Cả!
Hạt Cát
(Tài liệu: Truyện Thánh Cả Giuse. Tác giả: Hùng Minh)
_______
* (I) Thần Đô Huyền Diệu (Mystica Civitas) được Đức Mẹ mạc khải cho thánh nữ Agreda, gồm 10 tập viết về Thánh Gia, nhất là về Đức Mẹ, về Chúa Giesu, đặc biệt trong thời rao giảng Tin Mừng, cuộc tử nạn, phục sinh của Chúa, và về Giáo Hội sơ khai. TĐHD đã được Giáo Hội công nhận nhiều lần.
Views: 0