Trần Mỹ Duyệt
Theo sử sách, Thánh Giuse sinh tại Belem năm 90 trước Công Nguyên, và qua đời ngày 20 tháng 7 năm 18 sau Công Nguyên.1 Ngài được tôn kính trong các giáo hội Công Giáo, Anh Giáo, Chính Thống Nguyên Thủy, Chính Thống Đông Phương và Tin Lành. Lễ kính ngày 19 tháng 3 với tước hiệu Giuse Bạn Đức Maria, và ngày 1 tháng 5 với tước hiệu Giuse Thợ. Ngài được tôn nhận là quan thầy của các giáo hội Croatia, Đại Hàn, Việt Nam và nhiều giáo hội địa phương khác. Đặc biệt, Ngài được tôn nhận là Bổn Mạng Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ do Đức Giáo Hoàng Piô IX vào năm 1870. Khởi đi từ sự phát triển và nghiên cứu về Thánh Mẫu Học, từ năm 1950, Khoa Giuse Học cũng được khai mở và nghiên cứu rộng rãi. 2,3
Thánh Giuse là người được nhắc đến trong Phúc Âm như là phu quân của Đức Maria, mẹ của Chúa Giêsu. Trong truyền thống tôn kính của Kitô giáo, Thánh Giuse được tôn kính như dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
Giuse trong Tân Ước
Các thư của Thánh Phaolô được coi là những tài liệu Kitô giáo được viết ra trước nhất. Tuy có nói đến mẹ của Chúa Giêsu, nhưng không nêu rõ tên gọi, cũng như không nhắc đến cha của Ngài – mà chỉ nói đến Thiên Chúa là cha Ngài (x. Roma 15:26 etc.). Tin Mừng được cho là viết đầu tiên của Máccô cũng không nói gì đến cha của Chúa Giêsu. Nhưng tên Giuse đã xuất hiện trong Tin Mừng của Mátthêu và Luca sau đó. Ngoài ra, Luca còn cho biết tên cha của Giuse là Heli, và trong Mátthêu, cha của Ngài là Giacóp. Giacóp một tên gọi cũng xuất hiện song song trong Cựu Ước. Nó diễn tả Chúa Giêsu như một Maisen mới. Ý tưởng này được dẫn chứng thêm khi nói về việc Chúa sinh tại Belem, như một Đấng Cứu Thế được hứa ban, và xuất hiện từ dòng dõi Đavít.
Để giải thích tại sao Chúa Giêsu quê quán Nazareth nhưng lại sinh ra tại Belem, các thánh ký đã nhắc đến việc Giuse vâng lời sứ thần kết hôn với Maria, sau đó đưa Maria đang có thai trở về Belem quê quán, và ở đó Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu. Thời gian Giuse lưu lại Giêrusalem sau ngày Chúa Giêsu hạ sinh là bao lâu thì không được biết đến chắc chắn, có thể là hai năm cho đến khi ba nhà đạo sỹ đến bái lậy Chúa Hài Đồng.4 Sau biến cố này, Giuse được lệnh thiên thần đem Maria và bé Giêsu trốn sang Ai Cập để trốn thoát cuộc truy lùng của Hêrôđê. Nhưng sau khi Hêrôđê qua đời, được lệnh trở lại quê hương, để tránh sự dòm ngó của vị vua mới, Giuse đã đem trẻ Giêsu và mẹ Ngài về lại Nazareth thuộc xứ Galilêa và định cư tại đó.
Như vậy, theo Tin Mừng của Mátthêu, trẻ Giêsu, cũng giống như Maisen, trong cơn lùng bắt của bạo chúa, cũng giống như Maisen có tổ tiên mang tên Giuse đã đến Ai Cập. Cũng như Giuse trong Cựu Ước, Giuse này cũng có cha tên là Giacóp. Cả hai người có tên Giuse đều đã nhận được những mộng báo quan trọng nói về tương lại của họ.
Nhưng trong Tin Mừng của Luca, Giuse sống tại Nazareth và Giêsu thì được sinh ra ở Belem, bởi vì Giuse và Maria đã từ Nazareth trở về nguyên quán theo lệnh kiểm tra dân số, vì Giuse thuộc tôn thất vua Đavít. Và trong điều kiện ấy, Giêsu đã sinh ra tại Belem. Sau này trong Tin Mừng đã gọi Ngài là con Vua Đavít: “Lạy Giêsu con Vua Đavít xin thương xót tôi” (Luca 18:38). Tuy nhiên, Luca không nói đến việc các thiên thần và những giấc mộng, cũng không nhắc đến Cuộc Sát Hại các Hài Nhi, hoặc việc trốn sang Ai Cập của Thánh Gia.
Lần sau cùng Giuse xuất hiện bằng xương, bằng thịt được ghi lại trong Phúc Âm là câu truyện đi Lễ Vượt Qua tại Đền Thờ Giêrusalem khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, và được tìm thấy trong Tin Mừng của Luca. Sau đó Giuse không được nhắc đến nữa.5 Câu truyện này nhấn mạnh đến việc Chúa Giêsu biết về sứ mạng đang đến của mình, và ở đây Chúa Giêsu nói với cha mẹ mình từ “cha tôi” mang ý nghĩa Chúa Cha, nhưng cả hai đã không hiểu (Luca 2:41-51).
Truyền thống Kitô giáo nói đến Maria như một góa phụ qua hành trình sứ vụ của con mình. Giuse không được nhắc đến trong Tiệc Cưới Cana ở đầu sứ vụ của Chúa Giêsu, và cũng không thấy xuất hiện ở cuối cuộc Thương Khó của Ngài. Nếu hiện diện trong cuộc Khổ Nạn, theo truyền thống Do Thái, Giuse phải có trách nhiệm lo an táng cho Chúa Giêsu, ngược lại, người làm việc này là Giuse thành Arimathea. Và Chúa Giêsu cũng không phải trối mẹ mình lại cho môn đệ Gioan, nếu như người chồng của mẹ còn sống.
Trong khi không có Phúc Âm nào nhắc đến Giuse trong sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu, nhưng các Phúc Âm chia sẻ cùng một ý tưởng. Người dân của Nazareth, quê hương của Chúa Giêsu, đã nghi ngờ về tư cách tiên tri của Ngài, vì họ biết gia đình Ngài. Họ gọi Chúa Giêsu là “con bà Maria” (Máccô 6:3) thay vì nhắc đến cha của Ngài. Còn trong Tin Mừng của Mátthêu dân thành gọi Chúa Giêsu “con ông phó mộc”, và cũng không nhắc đến tên cha của Ngài (Mátthêu 13:53-55). Trong Luca 3:23 viết “Và Giêsu khoảng 30 tuổi, là (coi như) con của Giuse, người là con của Heli.” Trong khi ngôn ngữ của Luca dùng nói đến Giuse có vẻ chắc chắn, rõ ràng (Luca 4:16-30), Máccô và Mátthêu thì không xác quyết. So sánh giữa Luca, Máccô và Mátthêu không thấy trong Tin Mừng của Gioan, nhưng trong câu truyện tương tự giữa những người hàng xóm không tin tưởng, Gioan nói rõ, Giuse là cha của Chúa Giêsu: “Giêsu con ông Giuse, mà cha mẹ của ngài chúng tôi biết” (Gioan 6:41-51).
Hình ảnh Giuse trong Tân Ước
Thứ Tự |
Biến Cố |
Mátthêu |
Máccô |
Luca |
Gioan |
---|---|---|---|---|---|
1 | Giuse sống ở Nazareth | Luke 2:4 | |||
2 | Gia phả Chúa Giêsu | Matthew 1:1-17 Solomon – Jacob | Luke 3:23 Nathan – Heli | ||
3 | Giuse hứa hôn với Maria | Matthew 1:18 | |||
4 | Thiên thần hiện ra lần 1 | Matthew 1:20-21 | |||
5 | Giuse và Maria về Belem | Luke 2:8-15 | |||
6 | Chúa Giêsu giáng sinh | Matthew 1:25 | Luke 2:6-7 | ||
7 | Dâng Chúa vào Đền Thờ | Luke 2:22-24 | |||
8 | Thiên thần hiện ra lần 2 báo mộng | Matthew 2:13 | |||
9 | Trốn qua Ai Cập | Matthew 2:14-15 | |||
10 | Thiên thần báo mộng lần 3 bảo Giuse trở lại Nazareth | Matthew 2:19-20 | |||
11 | Giuse và gia đình về Nazareth | Matthew 2:21-23 | Luke 2:39 | ||
12 | Tìm thấy Giêsu trong Đền Thờ | Luke 2:41-51 | |||
13 | Thánh Gia | John 6:41-42 |
Giuse như người cha của Giêsu
Giuse như người cha của Giêsu xuất hiện trong Tin Mừng của Luca và trong một “lối đọc khác” của Mátthêu. Mátthêu và Luca cả hai đều nói về gia phả của Giêsu cho thấy tổ tiên nguồn gốc từ Vua Đavít. Mátthêu đối chiếu theo hoàng tộc dòng Salômôn, trong khi Luca đi theo một dòng khác bắt đầu từ Nathan, một người con khác của Đavít và Bà Bathsheba. Hậu quả là những tên giữa Đavít và Giuse đều khác nhau. Theo Mátthêu “Giacóp sinh Giuse, chồng của Maria” (Mátthêu 1:16), trong khi đó Luca viết Giuse là con của Heli (Luca 3:23). Một số học giả khi giải thích các gia phả này cho rằng dòng Solomon trong Mátthêu ở đó Giuse thuộc hoàng tộc chính, và dòng Nathan trong Luca, ở đó Maria thuộc dòng phụ. Gia phả theo Mátthêu kể Giuse theo luật dựa vào luật Do Thái, trong khi gia phả của Luca xét từ thể lý của dòng tộc Maria.6, 7
Sinh kế của Giuse
Trong các Tin Mừng, Giuse được gọi là “tekton” (τέκτων). Từ tekton theo truyền thống được dịch qua Anh ngữ là “carpenter” (thợ mộc). Một cách tổng quát, đây cũng được coi như một nghề chế tạo các vật dụng khác nhau.8 Nhưng nghề thợ mộc được xem như gần gũi hơn với truyền thống Kitô giáo xa xưa khi nghĩ về Giuse. Justin Martyr (qua đời năm 165) đã viết rằng Chúa Giêsu đã làm những cái ách và những chiếc cày, những chiếc bừa. 9 Nhiều học giả đồng ý từ tekton có cùng nghĩa với người thợ thủ công về đồ gỗ, kim loại. Geza Vermes đã cho rằng từ “thợ mộc” và “con ông thợ mộc” dùng trong từ ngữ Do Thái xác định Giuse là một người thợ mộc. 10
Trở lại lịch sử, trong thời của Giuse, Nazareth là một làng quê hẻo lánh thuộc Galilêa, vào khoảng 65 Km từ Thành Thánh Giêrusalem, một làng ít được nhắc đến trong những sách vở và tài liệu ngoài Kitô giáo. Vì phương tiện sống và điều kiện xây cất, làng này ước tính chỉ khoảng 400 người.11 Tuy nhiên, khoảng 6 Km từ thành Tzippori (ancient “Sepphoris”) bị tàn phá bởi quân Roma năm 4 BC, và sau đó được tái thiết 12 , nên căn cứ vào đó, người ta có thể đoán rằng Giuse sống gần đó và cả Chúa Giêsu sau này đã đi đi, về về từ Nazaraeth đến Tzippori để làm công tại đây. Một số học giả khác lại coi Giuse và Chúa Giêsu là những nghệ nhân chuyên về những công việc chế tạo gỗ, kim loại và đá.
Giuse trong tầm nhìn hiện tại
Tên Giuse đã xuất hiện trong Thánh Kinh, dòng dõi, sinh kế, và đời sống của Ngài cũng được nhắc đến. Ngài là người “công chính”. Chúa Giêsu sinh ra được Giuse nuôi nấng, bao bọc, dạy dỗ, hướng dẫn và thương yêu mặc dù Ngài không phải là cha thể lý của Giêsu. Tuy nhiên khi Thánh Kinh nói đến anh em của Chúa Giêsu, đã nảy sinh những tranh cãi liên quan đến Giuse và mẹ Ngài là Maria. Câu hỏi được nêu lên: “Anh em Chúa Giêsu là ai?”
Theo Chính Thống Giáo Đông Phương thì Giuse đã có con với người vợ trước là Salome, và khi ông hứa hôn nhưng chưa cưới Maria lúc đó ông là người góa vợ. Những anh em của Chúa Giêsu được nhắc đến, do đó, là con của người vợ này.13 Nhưng truyền thống Công Giáo, theo Thánh Giêrônimô, Giuse chính thức là chồng của Maria, nhưng những người anh em của Chúa Giêsu được nhắc đến trong Tin Mừng là anh chị em họ. Giáo lý Công Giáo về sự Đồng Trinh Vô Nhiêm Nguyên Tội của Đức Maria dậy rằng, tuy có là vợ chồng theo luật pháp, nhưng Giuse và Maria đã sống đời đồng trinh. Những người Tin Lành thì cho rằng, với những người anh em này, Đức Maria đồng trinh nhưng không trọn đời đồng trinh. Mẹ chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 5 nhiều học giả cũng đã tranh luận với nhau và tìm cách giải thích tại sao Chúa Giêsu vừa là con Thiên Chúa và vừa là con của Giuse.14
Lòng sùng kính
Những tài liệu đầu tiên đã cho biết việc sùng kính Thánh Giuse bắt đầu từ năm 800 và xem Ngài như nutritor Domini (người giáo dục/săn sóc của Thiên Chúa) bắt đầu thừ thế kỷ thứ 9 và tiếp tục phổ biến đến thế kỷ 14. Thánh Tôma Aquinas cắt nghĩa về sự cần thiết của Thánh Giuse trong chương trình Mang Thai của Đức Maria. Theo đó, người Do Thái sẽ ném đá chết Maria nếu không kết hôn, và vì thế, Chúa Giêsu cần được nuôi dưỡng, săn sóc, và bảo vệ của một người cha. 15, 16
Thế kỷ thứ 15, lòng sùng mộ chuyển sang những bước quan trọng khác được bắt đầu bở Thánh Bênađô thành Siena, Pierre d’Ailly, và Jean Gerson.17 Gerson viết tác phẩm Consideration sur Saint Joseph và giảng về Thánh Giuse tại Công Đồng Constance. Năm 1889, Đức Giáo Hoàng Leô XIII đã viết thông điệp Ouamquam pluries, thúc đẩy người Công Giáo cầu xin cùng Thánh Giuse như Đấng Bảo Trợ Giáo Hội trong hiện tình những thách đố Giáo Hội đang gặp phải.18
Giuse Học Thuyết, khảo cứu về thần học Thánh Giuse, là một trong những tư tưởng thần học hiện đại.19 Năm 1989, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thông điệp Quamquam pluries, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ra thông điệp Redemptoris Custos (Guardian of the Redeemer) trong đó giới thiệu vai trò Thánh Giuse trong chương trình cứu độ. 20
Cùng với Đức Trinh Nữ Maria và Hài Nhi Giêsu, Giuse là một trong ba người trong gia đình Nazareth. Việc tôn kính Thánh Gia bắt đầu từ thế kỷ thứ 17 và được khởi xướng do Phanxicô de Laval.
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã truyền thêm tên Giuse vào Sách Lễ Công Giáo. Và Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại truyền thêm tên Ngài vào Kinh Nguyện Thánh Thể. 21
Năm 1870, Đức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố Thánh Giuse là Quan Thầy Giáo Hội, và tuần bát nhận được bắt đầu vào thứ Tư trong tuần lễ thứ hai sau Phục Sinh để tôn kính Ngài. Sau này Đức Giáo Hoàng Piô XII, trong năm 1955 đã thiết lập lễ Thánh Giuse Thợ được cử hành vào ngày 1 tháng Năm. Đây cũng là ngày Quốc Tế Lao Động, tôn vinh Thánh Giuse như quan thầy những người lao động. Ngài được coi như con người điềm tĩnh, nhẫn nhịn, can trường, và chăm chỉ.
Cầu nguyện cùng Thánh Giuse
Suy niệm 7 Sự Vui Mừng và 7 Sự Đau Đớn Đức Mẹ, truyền thống Công Giáo cũng nói đến 7 Sự Vui Mừng và 7 Sự Đau Đớn Thánh Giuse bao gồm những kinh nguyện khi gặp gian nan, thử thách, khi kết hôn, khi dâng mình tận hiến cho Chúa, và khi chuẩn bị qua đời. 22 Thánh Phanxicô de Sales giới thiệu Thánh Giuse cùng với Đức Trinh Nữ Maria như những vị thánh cầu bầu mạnh thế. 23 Thánh Têrêsa Avila cho rằng sự khỏe lại của mình là do lời cầu bầu của Thánh Giuse và hô hào mọi người sùng kính Ngài. 24 Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu thì quả quyết rằng Thánh Giuse là Cha và là Đấng Bảo Vệ Các Trinh Nữ, và cảm thấy rất an lòng, và được che chở khỏi những nguy hiểm khi cầu xin với Ngài. 25 Và thánh Giáo Hoàng Piô X đã dọn một kinh cầu xin Thánh Giuse bắt đầu bằng: 26
Lạy Thánh Giuse, mẫu gương lao động cực nhọc,
Xin ban cho con ơn chu toàn bổn phận với tinh thần xám hối,
Để nhờ đó, đền bù được những tội lỗi con…
Ngoài ra, theo niềm tin tưởng cho rằng đặt một tượng Thánh Giuse trong nhà, Ngài sẽ che chở và gìn giữ mọi người, mọi vật trong nhà. Bởi vì Ngài đã từng hướng dẫn, và bảo vệ Thánh Gia. 27
Kinh khấn Thánh Giuse
Bảo trợ những vụ khó khăn
Lạy Thánh Giuse, xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu, Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời, đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên trời, Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin.”
Lạy Cha hiền, xin cầu bầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con. Khi ở thế gian này, Cha đã từng là Cha Nuôi và là vị bảo hộ trung thành của Chúa Con chí thánh, nay xin Cha bào chữa cho chúng con bên tòa Chúa. Chúng con trao phó cho Cha vụ khó khăn này (kể ra…). Xin Cha giải gỡ giúp chúng con, để thêm một vinh quang mới vào bao nhiêu vinh quang sẵn có của Cha.
Lạy Thánh Giuse nhân từ, chúng con tin tưởng – vâng, chúng con tin tưởng, Cha có thể chấp nhận lời nguyện của chúng con, và giải thoát chúng con khỏi những khổ cực u sầu mà chúng con đang gặp phải. Hơn nữa, chúng con vững lòng trông cậy, Cha không bỏ qua điều gì giúp ích cho những người sầu khổ kêu cầu Cha, chúng con sấp mình dưới chân Cha, tha thiết nài xin Cha đoái thương đến những than van khóc lóc của chúng con. Xin Cha lấy tình thương như áo choàng che phủ chúng con, và chúc lành cho chúng con – Amen. 28
Imprimatur
F.X Trần Thanh Khâm
Tổng Đại Diện GP Saigon
Trần Mỹ Duyệt
Lễ kính Thánh Giuse, 19 tháng 3 năm 2015
_____
Tài liệu tham khảo:
Nguồn: Tổng hợp từ Wikipedia, the free encyclopedia
- Souvay, Charles. “St. Joseph.” The Catholic Encyclopedia. Vol. 8. New York: Robert Appleton Company, 1910. 11 Oct. 2013
- P. de Letter, “The Theology of Saint Joseph”, The Clergy Monthly, March 1955, Online at JSTOR
- For the use of the term, see: A Thomistic Josephology by James J Davis 1967, University of Montreal, ASIN B0007K3PL4
- An argument based on Herod’s instructions to kill all male infants up to this age, in Matthew 2.16
- Perrotta, Louise B. (2000). Saint Joseph: His Life and His Role in the Church Today. Our Sunday Visitor Publishing. pp. 21, 110–112. ISBN 978-0-87973-573-9.
- Ironside, Harry A. (2007). Luke. Kregel Academic. p. 73. ISBN 978-0825496653.
- Ryrie, Charles C. (1999). Basic Theology: A Popular Systematic Guide to Understanding Biblical Truth. Moody Publishers. ISBN 978-1575674988.
- Deiss, Lucien (1996). Joseph, Mary, Jesus. Liturgical Press. ISBN 978-0814622551.
- Fiensy, 68-69
- Landman, Leo (1979). The Jewish Quarterly Review New Series, Vol. 70, No. 2 (JSTOR). University of Pennsylvania Press. p. 125–128.
- Laughlin, 192-194. See also Reed’s Chapter 3, pp. 131-134.
- Reed, 114-117, quotation p. 115
- Holy Apostles Convent (1989). The Life of the Virgin Mary, the Theotokos. Buena Vista: Holy Apostles Convent and Dormition Skete. p. 64. ISBN 0-944359-03-5.
- See, e.g., David Brown. “Commentary on Matthew 13:56”. Commentary, Critical and Explanatory, on the Whole Bible. Retrieved 2009-01-07. An exceedingly difficult question here arises—What were these ‘brethren’ and ‘sisters’ to Jesus? Were they, First, His full brothers and sisters? or, Secondly, Were they His step-brothers and step-sisters, children of Joseph by a former marriage? or, Thirdly, Were they cousins, according to a common way of speaking among the Jews respecting persons of collateral descent? On this subject an immense deal has been written, nor are opinions yet by any means agreed. For the second opinion there is no ground but a vague tradition, arising probably from the wish for some such explanation. The first opinion undoubtedly suits the text best in all the places where the parties are certainly referred to (Mt 12:46; and its parallels, Mr 3:31; Lu 8:19; our present passage, and its parallels, Mr 6:3; Joh 2:12; 7:3, 5, 10; Ac 1:14). But, in addition to other objections, many of the best interpreters, thinking it in the last degree improbable that our Lord, when hanging on the cross, would have committed His mother to John if He had had full brothers of His own then alive, prefer the third opinion; although, on the other hand, it is not to be doubted that our Lord might have good reasons for entrusting the guardianship of His doubly widowed mother to the beloved disciple in preference even to full brothers of His own. Thus dubiously we prefer to leave this vexed question, encompassed as it is with difficulties!
- The childhood of Christ by Thomas Aquinas, Roland Potter, 2006 ISBN 0-521-02960-0 pages 110-120
- Aquinas on doctrine by Thomas Gerard Weinandy, John Yocum 2004 ISBN 0-567-08411-6 page 248
- The liturgy and time by Irénée Henri Dalmais, Aimé Georges Martimort, Pierre Jounel 1985 ISBN 0-8146-1366-7 page 143
- Vatican website: Quamquam pluries
- Sunday Catholic Magazine October 4, 2009
- Vatican website: Redemptoris Custos
- Memorial of Saint Joseph the Worker Retrieved 3 October 2014
- Devotions to St. Joseph by Susanna Magdalene Flavius, 2008 ISBN 1-4357-0948-9 pages 5-1
- Introduction to the Devout Life by St. Francis de Sales ISBN 0-7661-0074-X Kessinger Press 1942 page 297
- The interior castle by Saint Teresa of Avila, Paulist Press 1979, ISBN 0-8091-2254-5 page 2
- The Story of a Soul by Saint Therese De Lisieux Bibliolife 2008 0554261588 page 94
- Ann Ball, 2003 Encyclopedia of Catholic Devotions and Practices ISBN 0-87973-910-X page 449
- Applebome, Peter (2009-09-16). “St. Joseph, Superagent in Real Estate”. New York Times. Retrieved 2010-06-24.
- Trích dịch: Revue de St. Joseph. Kinh do Tổng Hội (Archiconfrérie) Thánh Giuse và tạp chí Thánh Giuse ở Aldex (Pháp) phổ biến. Bản dịch có phép Giáo Quyền Địa phận Sàigòn ngày 9/3/1974. Kinh được cho là do Thánh Têrêsa soạn. Kinh nghiệm cho biết Thiên Chúa đã ban những ơn đặc biệt cho những người tin tưởng cầu nguyện Thánh Giuse qua bản kinh này.
Views: 0