Phạm Văn Bản
Các con thương yêu,
Từ ngày ba cởi chiếc áo bay, buộc bước vào nằm tù Cộng sản, không còn trông thấy mặt các con của ba khôn lớn, tới nay là bao lâu nhỉ? Bảy năm. Thân phận con người tù hàng binh sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 khiến ba chịu bao nhục hình, tra tấn đánh đập, cùm xích tay chân trong những khu nhà lao, biệt giam u tối. Những tháng năm cứ thế, lặng lẽ trôi qua mà ba tưởng rằng như mình đang chịu kiếp luân hồi vào thời Bắc Thuộc: “Lên rừng tìm ngà voi – xuống biển mò ngọc trai” của ngàn năm đô hộ giặc Tàu!
Nhìn ra cổng trại tù U Minh ngoài kia, cờ đỏ sao vàng lộng hành phất phới tung bay – Các con có biết không? Đó là biểu trưng nguồn gốc đã xuất phát từ cuộc Vạn Lý Trường Chinh Trung Quốc, mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam nhận cờ giặc làm cờ tổ quốc để thống trị dân ta qua bao thập niên! Ôi ngàn đời trước sau như một, người xưa đã nói: “Nước mất mà không biết là bất trí, biết mà không lo là bất trung, lo mà không làm là bất dụng!”
Ðêm nay trăng vằng vặc, tỏa rộng bầu trời, ba mơ màng ngắm ánh trăng rơi qua khe lán tả tơi, vượt sương thu huyền ảo, trở về mái ấm gia đình gặp má và các con thương yêu. Bao năm đô hộ Cộng Sản, ba không nhìn thấy mặt các con khôn lớn, không nghe tiếng cười hồn nhiên trẻ thơ, không tập viết chữ “tự do” cho các con để giúp các con sống trọn vẹn kiếp người.
Hình ảnh của gia đình ta mà ba mang theo trong ký ức, đó là cái đêm mà mọi người trong nhà thu xếp vội vàng mùng mền chiếu gối, bao bọc lương thực, kiểm điểm hành trang cho ba sáng hôm sau ra “trình diện học tập cải tạo,” nghe nhà cầm quyền nói rằng thời gian là một tháng trời.
– Một tháng của các con là ba mươi lần mặt trời lặn mọc.
– Một tháng của “Bác-Đảng” là ba mươi đời toàn trị dân lành.
– Một tháng của ba là cái ngày mà người đời thường nói: “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại!” Bảy năm tù đày cải tạo, nhưng sổ tay “Bác-Đảng” tính là bảy ngày.
Khi thời gian ngừng đọng, khi nét mực tuôn trào, khi giòng chữ cuốn theo tim óc đang đậm nét trên trang thư viết về cho con. Tất cả mang theo sức nóng nung đúc trong lòng ba, phát hỏa tợ ngọn diệm sơn sắp nổ tung nhằm thiêu đốt “Thiên Đường Cộng Sản” bóc lột. bất công của bè lũ tay sai bán nước.
Khi xưa ba viết tình thư cho má cũng không trằn trọc thổn thức khắc khoải như đêm nay. Tình yêu mà ba gởi đến với má thì đẹp như bình minh nắng ấm, êm như trăng thu huyền diệu, nhẹ như gió thoảng nụ hôn qua.
Các con có biết không, ngày ấy gia đình mình còn sống trong thể chế tự do, xã hội công bằng trong tình nghĩa đồng bào theo linh huấn của Tổ Tiên trong Chánh Thuyết Tiên Rồng với nguyên lý Một Bọc Trăm Con.
Nhưng đêm nay ba lại viết tình thư trong nghịch cảnh đau thương mất nước, mất đạo, mất hồn. Đồng thời còn mang tâm trạng thảm họa của con cháu phải chịu gánh nặng nô lệ Cộng Sản Bắc Thuộc. Những ý tưởng ấy sao mãi chập chờn trước mắt ba, vùi dập ba, hành hạ ba!
Ba thấy các con! Ba thương các con! Ba cứu các con! Tình thư mà ba đang viết ắt đậm nét hơn cả mực tím, hơn cả giấy trắng, hơn cả thưở học trò trinh nguyên ngày trước. Ý tưởng ấy đang tuôn trào máu lệ với tình thương Biển rộng Thái Bình của má, với tình yêu cao ngất Núi Trường Sơn của ba, và tất cả mang trọn tình thương Cha Mẹ gởi về cho các con.
Ba nghe văng vẳng đâu đây tiếng khóc chào đời của con, nhìn chập chờn từng bước tập đi tập đứng, thấy xa xa giọng cấp cứu của các con… ba chạy về đánh giặc và ôm con vào lòng. Nhưng chỉ là giấc mộng điệp!
Cứ mỗi lần ba mươi tháng tư đen, hình ảnh của các con lại hiện ra trong trí óc ba. Ôi, thời gian sao tàn ác! Những phút giây đói lả, những trận đòn thù khiến ba gục ngã giữa chốn công trường, những đêm trần trụi với giá lạnh thấu xương, và đời người mất nước như ba sao cứ kéo dài lê thê, tưởng chừng bất tận.
Ngày đêm trôi qua ở trại giam ba chỉ nghe tiếng thét của quản giáo diêm vương, tiếng chửi rủa của bộ đội lâu la, và âm thanh lanh lảnh tử thần của tiếng kẻng trại giam.
Ngày đêm trôi qua ở trại giam ba chỉ thấy màu xám ngắt của loài khỉ vượn, màu tro tàn của Bác-Đảng, và màu đen tối của thân phận con người như ba đang ngụp lặn trong địa ngục Mác-Lê. Các con ơi, ba thèm khát màu sắc, âm thanh, ánh sáng, bao giờ mới được thấy hả con?
Quê hương ta hôm nay không màu sắc, không âm thanh, không ánh sáng.
Có chăng là màu đỏ, máu me mà Bác-Đảng đã nhuộm vành khăn quàng cổ của các cháu thiếu nhi Việt Nam thơ ngây, với lời tuyên truyền đầu độc, “Ðêm qua em mơ gặp Bác Hồ!” Âm điệu ma quái ấy cũng làm cho đám nông dân và thợ thuyền run rẩy.
Ngày đêm trôi qua ở trại giam ba ước ao nghe tiếng chuông giáo đường ngân nga trong nắng chiều buông xuống màn đêm u tịch. Ba khao khát thưởng lãm khúc dương cầm réo rắc với bài thánh ca Kinh Hòa Bình của con gái ba đang dạo đàn. Ba ba thèm nghe tiếng cười hồn nhiên trong sáng của con trai ba đang khúc khích, để giúp cho hồn ba lắng đọng.
Ðã bao năm ba không thấy tà áo dài tha thướt, không ngắm màu cờ vàng mà má con ưa thích, không thấy đôi mắt bồ câu đen nhánh của các con… Ba bị cướp đi tất cả! Mất tất cả! Chỉ còn đôi mắt thù giặc phát hỏa và cái đầu bất khuất bốc cháy của ba.
Khi nhớ nhung chất ngất ba đè nén cơn đau xuống vực đại dương, nhưng sức ép lại nổ tung như ngọn sóng thần, nhức nhối trong tim. Thời gian khi xưa học chủ thuyết Mác-Lê, thuật chuyện thế giới đại đồng Cộng Sản, nhìn dòng người di cư Miền Bắc vội vã từ bỏ mồ mả cơ nghiệp Tổ Tiên ngàn đời, đi tìm Tự Do vào Nam với hai bàn tay trắng.
Lúc đó chính ba đây cũng không biết, cũng không tin, cũng không ngờ về Cộng Sản, như các con ngày nay đang đọc thư ba, cũng chưa hiểu nỗi lòng trắc ẩn của ba, chưa hiểu về tập đoàn Cộng Sản tam vô!
Phải bao chục năm các con cảm nhận được lời ba? Thế mà giờ này ba khóc thương cho dân nước. Cũng như các con sẽ khóc thương ba mấy chục năm sau này, khi nhận biết ý nghĩa hoặc bị rơi vào nghịch cảnh tù đày chính trị như ba, thì các con ắt hiểu thế nào là Cộng Sản lừa bịp. Con ơi, lúc ấy đã quá trễ rồi.
Sáng nay, ba nhận tin các con đã vượt biển tìm tự do, và tới miền đất hứa.
Con gái cưng,
Bàn tay con, ngày sinh ra má từng khen con có bàn tay dầy giống ba! Gái giống cha nhà có phúc. Bàn tay dầy anh dũng tranh đấu chống bất công mà má hằng nâng niu trìu mến… đang đeo bao nhiêu nhẫn ngọc vàng ngà? Ôi! Sao ba sợ vật chất sẽ làm hoen ố bàn tay lãnh đạo chỉ huy kia, mà lãng quên sứ mệnh tổ chức Giúp Dân Cứu Nước!
Trương mục ngân hàng, tủ áo kệ giầy có bao nhiêu, hả con? Hạnh phúc con người chỉ khi ta biết nhận diện chính mình, chớ không tăng bằng con số? Ôi! Sao ba sợ tiền bạc lụa là, kim cương hột soàn sẽ làm mất lương tri con gái ba – một đứa con vốn mang dòng máu kiên cường bất khuất của Đức Trưng Đức Triệu.
Thôi thì chiều nay học Trường Havard, xin đừng liệng bỏ mảnh giấy dư thừa vào thùng rác, mà gởi về cho ba để ba dạy cho các em Việt Nam tập viết chữ “Tự Do.” Vì đã từ lâu lắm rồi, quê hương ta không còn nghe hai chữ ấy nữa.
Con trai qúy,
Chiều nay hái đóa hồng vàng, ngắt từng cánh thả trên biển California, theo chiều gió Thái Bình Dương trôi dạt về đây, giúp ba kết lại Cờ Vàng, lá cờ mà ngày xưa má đã may tặng ba làm khăn quấn cổ mỗi đêm trời lạnh trên tuyến trực canh. Ba còn nhớ lúc con vừa sinh ra với làn da vàng. Màu vàng da con là màu má con hằng yêu thích và ca tụng.
Chiều nay có tên du đảng nào đánh con, thì ba xin con đừng đánh lại, vì cái đau đớn ấy chẳng thấm bằng cú đá cú đấm của Cán Bộ Cộng Sản đánh ba hằng ngày. Con cần giành sức lực mà đánh lại kẻ thù đang đánh ba, đang đánh gia đình ta, đang đánh dân tộc ta.
Con gái đi xi-nê tối nay có đứa nào hỗn với con, cũng xin con đừng oán thù nó. Hãy nhớ rằng má và các em con đang ở nơi quê nhà còn chịu nhục nhã bởi Cộng Sản Việt Nam và đau khổ hơn trăm phần! Ba mong các con thông cảm cho phần nào nỗi nhục của má, của các em mà có nhận thức về đại cuộc cứu má, cứu gia đình ta, cứu dân tộc ta.
Hôm nay có kẻ vô thần nào nói động chạm đến tín ngưỡng tôn giáo của các con, xin đừng giận hờn nó, vì trên quê hương ta hôm nay giáo hội của các tôn giáo còn gánh chịu những sự xỉ vả, bôi nhọ, đầu độc bởi bọn Cộng Sản vô thần gấp triệu phần!
Các con nên nghe lời dạy của ba má mà thực hiện công cuộc: “Lấy chí nhân mà thay cường bạo – Đem đại nghĩa mà thắng hung tàn,” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo).
Ba vẫn biết “Con hơn cha nhà có phúc,” các con là những người hiếu thảo, thương ba thương má, thương các em đang ở quê nhà, mà suy tính tìm đường Giúp Dân Cứu Nước, sách lược được chỉ dẫn trong Chánh Thuyết Tiên Rồng, nguồn sinh thức của Dân Tộc Việt Nam ngày nay.
Gởi về cho ba giấy kẹo Xô-cô-la vừa mở trong lúc coi hát, để ba biết các con đang an vui giải trí.
Gởi về cho ba mùi xăng vừa đốt trong lúc lái xe, để ba biết các con đang tự do di chuyển.
Gởi về cho ba hơi men trong lúc say xưa bàn chuyện quốc sự, để ba có hy vọng các con sẽ có ngày trở về cứu má, cứu em, cứu gia đình và dân nước ta.
Các con thương mến.
Khi giòng chữ muộn màng này đến với các con, thì thời gian ngừng đọng và ba không còn sống trên cõi đời này nữa. Xót thương thay! Thân xác ba mang ra làm phân, bón cho gốc chuối, cho củ mì của nhà cán bộ Cộng Sản, tạo giúp thêm lương thực bồi bổ nuôi dưỡng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta.
Đớn đau nhất là ba, phải đem hình hài máu huyết của Tổ Tiên giống dòng, mà đi xây đắp chủ trương xâm lăng “Vành Đai Con Đường – Nhất Đái Nhất Lộ” của chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc nhằm đô hộ Việt Nam.
Mặc dù xác ba có chết nhưng hồn ba không chết. Khí phách của ba sẽ hòa hợp trộn lẫn với Đất Trời, Hồn Thiêng Sông Núi, Anh Linh Dân Tộc sống mãi và phù độ cho các con, cho gia đình, cho dân tộc hạnh phúc trường tồn.
Hãy bình tâm ngạo nghễ đứng lên làm người, nghiên cứu về lãnh đạo và tổ chức! Hãy hiên ngang học hỏi và nhận lãnh trách nhiệm trả thù cho ba, rửa hờn cho nước. Mong các con sẽ cô đọng thời gian, rút ngắn thời gian trong đại cuộc cứu má cứu em, cứu dân cứu nước.
Gia đình đang chờ
Quê hương đang chờ
Tổ chức cứu nước
Phạm Văn Bản
Views: 0