Phạm Văn Bản
Ðất nước là nhu cầu sống thực của con người. Ðất dụng canh, nước sinh cư tạo lương thực nuôi con người trong hệ hoàn vũ. Theo công kỹ nghệ gia, ngành nông nghiệp ngày nay đang tiêu thụ nước với tỷ lệ 65%, kỹ nghệ 25%, và gia cư 10% cùng số lượng hao cạn hàng giờ trên toàn cầu. Bởi thế nước đã là nước hằng sống, là nước (state) hay nước (water), dân sống vì nước, không nước thì chết đói chết khát.
Nhìn lại thập niên trước, khi chính quyền Mễ Tây Cơ làm đơn vay nước (water loan) Sông Rio Grande của Hoa Kỳ với số lượng 2.8 triệu khối, đã làm dư luận quốc tế bàn tán xôn xao. Nguyên nhân, vùng Bắc Mễ gặp hạn hán trong ba năm liền. Thiếu nước làm cho chăn nuôi, mùa màng, lâm ngư của Mễ bị hủy hoại.
Khi nước sông cạn thì nước biển tràn vào tiêu diệt toàn bộ ngư sản nước ngọt (fresh water). Dân chúng cơ cực bịnh hoạn và sống cảnh nước phèn, chờ mưa… Theo chương trình ngư nghiệp của hiệp ước 1944, Mễ ký kết với Mỹ được dùng 5% lượng nước sông Rio Grande, kiểm soát bởi hệ thống đập thủy điện thủy lợi (hydro dam) thượng nguồn tiểu bang Texas. Ðành rằng vay nước thì trả bằng nông phẩm… nhưng sự kiện mượn nước cũng làm cho chính phủ Mỹ lo ngại, vì thiếu nước cũng ảnh hưởng tới nông dân Texas.
Trên thế giới có hơn 210 con sông lớn, xây đập thủy điện thủy lợi trong vài thập niên qua, ít nhất có từ 35 năm. Thực tế, các nước thượng nguồn (up-stream) trở nên thịnh vượng chăn nuôi trồng trọt, lương thực dồi dào và có thêm ưu thế quân sự hóa “cái đập” cầm quyền phát nước, trị nước (water control) hạ nguồn (down-stream), là dân cam cảnh nô lệ. Dân hạ nguồn hưởng giòng ô uế (contaminated water) do hóa chất độc hại organochlorines, DDT, toxic chemicals… từ phân bón hay thuốc trừ sâu của xứ nông nghiệp thượng nguồn thải ra và đổ xuống giòng sông.
Theo tài liệu Tổ Chức Lương Nông Thế Giới (The U.N. Food and Agriculture Organization), Liên Hiệp Quốc 1996, với những phát minh tiến bộ khoa học công nghệ như khám phá ra hạt giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu, hay hệ thống phun tưới… làm gia tăng sản lượng lương thực, tạo gía thành ngũ cốc giảm hạ, tỷ lệ chết đói của nhân loại xuống thấp. Bình quân khẩu phần lương thực cho mỗi đầu người là 300 kilograms. Nhưng điều kiện chưa đủ, chưa phải là niềm hạnh phúc cho nhân loại hôm nay… Vì vấn nạn khan hiếm nước đang đe dọa toàn cầu. Mất nước, thiếu nước, khát nước dẫn tới tình trạng khủng hoảng an sinh, yếu kém sức dân, bất an xã hội, biến loạn chính trị, đó là nguyên nhân gây ra chiến tranh.
Nhân loại xưa nay xảy ra chiến tranh tàn sát tiêu diệt lẫn nhau cũng bởi khát nước. Ðiển hình Cuộc Chiến Sáu Ngày (Six Day War) của Do Thái vào năm 1967, vì cảm nhận nguy cơ thiếu nước, đang khi Syrian phong tỏa giòng Sông Banias một trong ba nhánh của Jordan. Do Thái phải lập tức đánh chiếm hai vùng nước chiến lược, hồ mạch ngầm West Bank và cao nguyên Golan Heights là thượng nguồn chảy xuống đập Jordanian, trước khi đổ ra hai nhánh Yarmouk và Banias.
Ðể có thêm bằng chứng về “chiến tranh vì nước,” người viết xin trích dẫn lời tuyên bố của thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Syleyman Demired trả lời yêu sách khi chia nguồn Euphrates Water với Syrian trước Liên Hiệp Quốc năm 1992, “Chúng tôi không nói chúng tôi chia nguồn dầu hỏa của họ. Thì họ cũng đừng nói muốn chia nguồn nước của chúng tôi (We do not say we should share their oil resources. They cannot say they should share our water resources).” Ðó là nước hằng sống, nước vĩnh cửu, và con người không nước thì chết.
Nhìn về quê hương Việt Nam, có thể vì sự di chuyển thuận lợi cho việc định canh định cư trong vùng đồng bằng hạ nguồn của tổ tiên chúng ta ngày trước, như châu thổ Sông Hồng, Ðồng Nai, Cửu Long… như điều kiện thiên nhiên cho phép! Nhưng thời đại ngày nay, các xứ nông nghiệp hạ nguồn lâm nạn! Trở thành nghèo nàn lạc hậu vì “bị nô lệ” bởi cái đập thượng nguồn. Ðang khi quốc tế chưa thể hiện được một chính sách phát nước khả dĩ cân xứng, hòa đồng theo nhu cầu và tiến trình sống chung của nhân loại.
Nạn Nước Việt Nam ngày nay. Chứng cớ cụ thể là trường hợp đập Pak Mun, thuộc loại thủy điện thủy lợi cỡ lớn (hydro dam) thượng nguồn Cửu Long (Mekong River) miền Ðông Bắc Thái Lan, khánh thành sau thập niên 90 do công ty EGAT (Electricity Generating Authority of Thailand) và Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) tài trợ. Và cũng trên lưu lượng thượng nguồn còn có cả một hệ thống thủy đập của Trung Quốc, của Miến Ðiện và chảy xuống thủy đập của Ai Lao, của Cao Miên… một giòng với bấy nhiêu cái đập… thì nguồn nước trở thành ô uế (contaminated water), độc chất sa thải từ các vùng kỹ nông lâm ngư… chảy xuống Sông Tiền Sông Hậu của đồng bằng miền Nam Việt Nam. Nguồn nước ô nhiễm! Hỡi ơi, mất nước, thiếu nước (fresh water) đang trở thành mối đe dọa, không những chỉ nước canh tác mà còn ảnh hưởng an sinh của đồng bào ta hạ nguồn.
Miền Bắc thì cũng mất nước. Trung Quốc vốn sẵn mộng làm quan thái thú đô hộ dân ta ngàn xưa, thì nay lại có ưu thế “cái đập” trị nước mang tên là “The Three Gorges Dam” mãi tận thượng nguồn Sông Hồng (Yangtze River). Việt Nam khó mà thoát ách nô lệ quân Tàu! Thiếu nước thì đi vay (water loan), vay mượn thì thành con nợ và trả nợ chồng chất ngập đầu. Vay tiền (money loan) thì trả lãi, và có lẽ còn dễ trả hơn là nợ nước. Nợ nước thì trả bằng nông phẩm, và cả một dân tộc thành con nợ, và trả nợ chẳng khi nào trả cạn! Trường hợp vay nước và trả nợ của Mễ Tây Cơ là dẫn chứng điển hình. Chủ nợ Trung Quốc so với Hoa Kỳ còn độc địa và nghiệt ngã vạn lần!
Cũng theo tài liệu Liên Hiệp Quốc, thế giới có hơn 38,000 thủy đập, và riêng Trung Quốc chiếm hơn nửa số thủy đập đó. Chúng ta thấy ngay cái cảnh thiếu nước và bao nỗi khó khăn trong việc giữ nước của đồng bào quê hương mình. Việc “giữ nước” lại cần phải có sức dân sức nước, tức kết hợp toàn dân trong một khối hơn 100 triệu người trong nước và hải ngoại… có hồn dân hồn nước để giữ nước. Từ những vấn đề như vay nước, lọc nước, dùng nước… nước uống cho chí nước tiêu dùng trong công nông nghiệp.
Việt Nam là nước hạ nguồn, bị nô lệ bởi thiên nhiên là lẽ tất nhiên. Nhưng việc giữ nước lại do khả năng con người qua những chính sách sáng tạo để ứng dụng, chớ không chỉ dành giật hay cướp đoạt chính quyền như bao người lầm tưởng, mà bỏ quên cái đập nước! Có lẽ từ ngày ông Hồ và đảng của ông cầm quyền tới nay qua thời gian gần thế kỷ, nhưng chưa thấy bao giờ họ tiên liệu về mục tiêu nước, hay yếu tố nước… Ngược lại, họ căn cứ vào bạo lực làm cứu cánh nhằm giải quyết chuyện nước non.
Thiếu nước thì phài vay nước. Nợ nước thì phải trả bằng nông sản. Cho nên sau khi thâu hoạch hàng vụ Hà Nội đành ngậm bồ hòn “của xứ hạ nguồn” mà phải đội lúa sang triều cống quan thày Bắc Kinh để trả nợ nước. Ðương nhiên, Hà Nội cũng chỉ được hưởng gía thành rẻ mạt trong việc Bắc Kinh trả lại bằng phân bón, hay thuốc trừ sâu “thiếu chất lượng” do biến chế với kỹ thuật thô sơ. Ðã một thời (1995) Hà Nội khoe khoang với Liên Hiệp Quốc sản xuất nhiều lương thực, đứng hạng thứ tư về tài trợ cho nhân dân Trung Quốc. Họ vừa lòe bịp dư luận thế giới lại vừa làm cho đồng bào ta ăn đói triền miên (xem State of World 1996 của nhóm World Watch Institute Report).
Nước là nhu cầu sinh thái (ecosystem) của thực vật, động vật và con người. Nước là tác động chung phần (collective security) trong môi trường an sinh. Nước dùng nhiều ắt cạn. Nông nghiệp là ngành tiêu thụ nhiều nước nhất, nước canh tác, nước trông trọt, nước chăn nuôi, nước công nghệ… và khi nước cạn, dầu cho có đóng giếng phun, và ngay đến những miền có nhiều mưa, thì cũng chỉ nước phèn. Và nhận xét chung tai ương thiếu nước hôm nay xảy ra do “cái đập,” làm thay đổi khí hậu, thời tiết cho chí mạch ngầm… và nếu đóng giếng, thì nước lấy lên cũng là độ mặn như Mễ Tây Cơ và nhiều nơi khác khổ công mà không còn nước ngọt (fresh water).
Xung quanh hoàn cầu, phẩm chất trung thực của hệ động vật với nước cũng bị đe dọa, liên hưởng tác động trong sinh hoạt con người. Nước ô nhiễm đã làm biến thể cư dân, diệt trừ ngư sinh, bùng phát thương mại, đấu tranh nguồn nước, và làm thay đổi khí hậu tạo cho địa cầu càng ngày càng hâm nóng… Còn đặt vấn đề bảo vệ môi trường an sinh thì những nhà soạn định chính sách (policy decision maker) mới chỉ mang mặc khái niệm công bình, và đặt căn cứ tư tưởng trên nhân quyền để bảo vệ… chớ chưa giải quyết trọn vấn đề của con người toàn vẹn trong môi trường lành mạnh đúng thực (It brings everyone to the level of shared depend on an intact, health evironment).
Chìa khóa tâm tư mở cửa lòng con người hôm nay chưa có, vì còn qúa mới mẻ với nhu cầu nước, và chính sách phát nước toàn cầu. Theo tài liệu của nhóm nghiên cứu ngư sinh Hoa Kỳ (American Fisheries Society) thì lượng nước ẩm trong đất bị tiêu hao từ thời lập quốc ở những năm 1780 đến 1980, trung bình mất 24 mẫu mỗi giờ (The amounted of wetlands lost between the 1780s and 1980s averaged more than 24 hectares – 60 acres – an hour for every hour of those 200 years). Ðó là bằng chứng cụ thể trong việc dùng nhiều thì hết.
Ðang khi nước cạn thì đất canh tác bị chai (soil degradation). Ðất nước bị ô nhiễm (pollution) bởi con người khai thác khoáng mỏ, lâm sản, vùng chăn nuôi gia súc, kỹ nghệ, thành thị… Tác hại nhất là đất canh nông sa thải độc tố vào nguồn nước như organochlorines, DDT, toxic chemicals… nước không tinh khiết, và các dân hạ nguồn lãnh đủ mọi độc hại… Hơn nữa, những biến chứng do nguồn nước ô nhiễm gây ra như gia súc chăn nuôi lây nhiễm H5N1, Corona Virus từ chim trời, động vật, con người… Tất cả thành mối lo cho dân tộc Việt chúng ta sống ở hạ nguồn.
Công cuộc đấu tranh cho an sinh của người Việt được ghi nhận là mục tiêu nước, nguyên tố nước. Nghiên cứu tài liệu nông ngư Việt Nam chúng ta thấy rằng các chính sách việc nước thì nhà cầm quyền Hà Nội không có khả năng giải quyết. Vì họ thiếu cái nhìn tổng hợp chính trị toàn cầu, những nguyên tắc góp phần an ninh sống chung, trật tự thế giới mới (collective security, new world order) trong một thể chế dân chủ đa đảng, đặc biệt sau thời kỳ chiến tranh lạnh (post cold war) những suy tư và khám phá mới mang tính chất đúng đắn, nguyên tắc giải quyết trên căn bản của con người toàn vẹn và đúng thực.
Bất hạnh thay! Người Cộng sản tới nay mà họ vẫn còn say sưa với những quan niệm lạc hậu của châu Âu Westphalia: quân bình quyền lực, độc lập, tự do… chủ quyền (sovereign), dân tộc tự quyết (self-determination for people), quốc gia, dân tộc, văn hóa, tôn giáo… từ năm 1648 mệnh danh “Chistendom,” là tư tưởng cực đoan trong Thời Đại Nông Nghiêp để mà Hà Nội so đo kèn cựa… Với quan niệm chính trị lạc hậu, cổ điển và cũ kỹ ấy, theo Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Boutro Ghali, đó chỉ là đại họa chiến tranh, gây phiền toái cho nhân loại trên bước đường xây dựng và phát huy tinh hoa cuộc sống tốt đẹp (Xem Paths to Peace, 1992).
Ông Ghali cũng tuyên bố rằng, “Cánh cửa Liên Hiệp Quốc còn rộng mở, chưa đóng,” và ông nhắn nhủ các tổ chức nên đặt yêu sách nước (claimed state) chớ đừng có “nước cha” (claimed statehood). Từ đó, chúng ta hiểu lời ông để góp phần vào công cuộc thực thi “việc nước” trong tiến trình đấu tranh cho an sinh của dân tộc Việt. Cũng theo tài liệu Liên Hiệp Quốc, chúng ta biết rằng có hơn 4000 yêu sách lập nước, lập chính phủ, hay quan sát viên, trong đó chẳng phải chỉ có 184 nước và những tổ chức không nước (non-state organization) hay phi chính quyền (non-government organization), mà còn có nhiều những tổ chức khác.
Tóm lại, nước (water, state) là nhu cầu cấp thiết của đồng bào chúng ta cũng như mục tiêu chung của loài người đang sống (universal long-range objectives). Từ khởi điểm mất nước đó qua hành trình sáng tạo “dựng nước,” chúng ta có thể đặt ra yêu sách một Nước Việt Nam (The Vietnam State) trước cộng đồng nhân loại để thành hình một tổ chức chính danh – chớ không phải là thành lập một chính phủ lưu vong – dầu là phi chính phủ (non-government) nhưng tổ chức này có thể làm quan sát viên để tranh đấu cho quyền sống của dân tộc Việt Nam.
Phạm Văn Bản
Views: 0