Báo Mai. Thursday, September 2, 2021
Hôn nhân dựa trên giá trị của những đức hạnh như; sự tự chủ hoặc kiểm soát được các ham muốn và cám dỗ cá nhân thay vì quy phục chúng.
Hôn nhân là gì? Sau khi tìm hiểu kỹ các định nghĩa, tiến sĩ David Blankenhorn đã đưa ra nhận định của riêng mình trong cuốn sách “Tương lai của hôn nhân” (The Future of Marriage), xuất bản năm 2007 khi ông vẫn tin tưởng vào một tương lai xán lạn trong hôn nhân như sau:
“Trong xã hội con người, hôn nhân là sự giao kết giữa người đàn ông và người phụ nữ được xã hội công nhận, là một mối quan hệ nhân sinh cũng như một thể chế, chủ yếu là bất kỳ đứa trẻ nào là kết quả của sự hợp nhất này được công nhận – dưới góc nhìn của xã hội – thuộc trách nhiệm của cha mẹ xét trên khía cạnh tình cảm, đạo đức, tâm sinh lý và pháp lý. Đó là hôn nhân. Đó là một lối sống đã bám rễ trong sự thích nghi cơ bản về sinh lý và sinh hóa của giống loài chúng ta, đã được lưu giữ và phát triển từ thời kỳ tiền sử xa xưa.”
Cần lưu ý rằng tiến sĩ Blankenhorn không đề cao quan điểm về hôn nhân của Do Thái giáo – Kitô giáo, như đã được đề cập trong các tác phẩm linh thiêng và thế tục, chẳng hạn như trong cuốn “Sách Diễm Ca” (Song of Songs), các vở kịch của Shakespeare, và tập thơ “Thiên đường đã mất” (Paradise Lost) của Milton – các tác phẩm đã tôn vinh niềm hạnh phúc khi người nam và nữ thuộc về nhau, những vũ điệu lứa đôi hân hoan, chứ không phải là sự khinh thường chán chường dành cho nhau. Blankenhorn chỉ đơn giản chỉ ra những yếu tố cơ bản của hôn nhân, không chỉ trong nền tảng đạo đức của Do Thái giáo – Kitô giáo, mà còn là những điều được hệ thống hóa trong các điều luật pháp lý đầu tiên được biết đến và đã được tiếp nhận khắp nơi trong 5,000 năm qua – nhưng hiện giờ đã không còn được thực hành.
Cuộc cách mạng tình dục trong những năm 1960, cùng với sự xuất hiện của thuốc tránh thai, văn hóa phẩm đồi trụy và sự bình thường hóa quan hệ tình dục trong và ngoài hôn nhân, đã phá vỡ mối liên kết cơ bản trong định nghĩa của tiến sĩ Blankenhorn, cũng như xóa nhòa mọi khái niệm về việc hai giới tính được sinh ra để dành cho nhau, thành thân và cùng nhau sinh và nuôi dạy con cái, cùng nhau cam kết, có trách nhiệm với nhau và với con cái.
Thay vào đó, hôn nhân đã được tái định nghĩa lại là một dạng tình bạn được pháp luật thừa nhận, không yêu cầu cụ thể về giới tính. Cũng như trong các mối quan hệ tình bạn nói chung, phiên bản tái định nghĩa của hôn nhân cũng không yêu cầu một lòng chung thuỷ tình, nghĩa vợ chồng thiêng liêng. Hình thức hôn nhân mới này là sự kết nối giữa hai cá thể. Nó mô phỏng hôn nhân chính thống, trong đó cặp vợ chồng sẽ hình thành một hệ thống sinh sản duy nhất giữa người nam và người nữ, giữa người cha và người mẹ, thay vì được hiểu theo một logic khác. Cũng như các loại tình bạn khác, mối quan hệ này không có sự bền vững, không có sự cam kết lâu dài với nhau hoặc trong việc nuôi dạy con cái. Tất cả những sự thoái lui khỏi nguyên tắc của hôn nhân chính thống đã xảy ra trước sự hợp pháp hóa của “hôn nhân” đồng giới, vốn không phải là nguyên nhân mà chỉ là một biểu hiện về sự suy tàn của hôn nhân và sự biến chất của nó.
Với sự thoái trào của hôn nhân, trong những thế kỷ sau, sự gia tăng của phong trào sống thử và việc có con ngoài giá thú, cũng như tỷ suất sinh giảm, đã khiến hôn nhân không còn là một thể chế xã hội trong thời đại nay. Mặc dù hôn nhân vẫn là đích đến của số đông, nó đã trở thành một cột mốc chứng nhận sự trưởng thành cũng như sự ổn định về mặt kinh tế cho con người, hơn là một lựa chọn dẫn tới những giá trị đó. Đó là một lựa chọn trong số những lựa chọn khác, tạo ra một loại cấu trúc gia đình trong số những loại khác. Ngay cả khi là một lựa chọn, nó nhận được rất ít sự ủng hộ từ giới tinh hoa ở các nền văn hóa khác nhau – những người phản đối mạnh mẽ bất kỳ gợi ý nào rằng nó thích hợp hơn các lựa chọn thay thế. Ví dụ, vị thẩm phán gia đình cấp cao nhất ở nước Anh và xứ Wales, gần đây đã nêu quan điểm rằng nước Anh nên “đón chào và hoan nghênh” sự sụp đổ của hệ thống gia đình hai thế hệ, và tiếp nhận sự đa dạng trong các hình thức gia đình.
Nhằm mô tả những tác động tàn phá của xu hướng “ tình dục rẻ tiền” (cheap sex), một thế giới của những mối quan hệ phức tạp, buông thả và ngắn hạn, nhà xã hội học Mark Regnerus nhấn mạnh rằng con đường dẫn đến hôn nhân – vẫn là mục tiêu của đại đa số – đang được tạo dựng bởi “những năm tháng lâu dài và những mối quan hệ thất bại hơn trong quá khứ. ”
“Những cấu trúc, câu chuyện và nghi lễ quen thuộc một thời về chuyện tình cảm và hôn nhân – chuyện hẹn hò, yêu đương, nên kết hôn với người như thế nào, tại sao và khi nào – hầu hết đã sụp đổ, chỉ còn phổ biến trong các phân nhóm, và ngày càng khó tồn tại,” tiến sĩ Mark Regnerus viết năm 2017 trong cuốn sách “Tình dục rẻ tiền: Sự thay đổi của con người, hôn nhân và chế độ một vợ một chồng” (Cheap Sex: The Transformation of Men, Marriage, and Monogamy)”.
Giá trị đức hạnh trong hôn nhân
Liệu những giá trị bền vững của hôn nhân còn mang tính khả thi ngày nay, thậm chí dù chỉ là một sự lựa chọn, ngay cả trong các nhóm phụ? Hôn nhân dựa trên giá trị của những đức hạnh, điển hình như sự tự chủ hoặc kiểm soát được các ham muốn và cám dỗ cá nhân thay vì quy phục chúng. Nó phụ thuộc vào sự cẩn trọng và óc phán đoán thực tế, trong sự công bằng và lòng chung thủy khi ta đặt niềm tin vào những lời hứa hẹn và sự cam kết của đối phương. Đó là những đức tính cá nhân, nhưng chúng ta đang sống trong một môi trường sinh thái đạo đức, nơi luật pháp, thể chế văn hóa, văn hóa đại chúng,.. có thể hoặc giúp con người trau dồi và thực hành những đức tính cần thiết cho hôn nhân, hoặc làm thoái hóa khả năng cư xử đức hạnh của chúng ta.
Tôi sống ở một thị trấn nhỏ nơi mà hôn nhân và những giá trị cần thiết của hôn nhân được đề cao. Nơi đây cũng tọa lạc một trường Cao đẳng Công giáo chính thống với những luật lệ nghiêm khắc về việc sinh viên đến thăm nhau trong ký túc xá, và việc nam nữ sống chung với nhau tại đây hoàn toàn không được phép. Phong trào tuần lễ Không tình dục cũng được phổ biến, việc có các hành vi thân mật trước hôn nhân không được bình thường hóa (thay vào đó sinh viên tổ chức Tuần lễ tình yêu hàng năm), và tại đây không có máy bán bao cao su. Tuy vậy, các hoạt động cộng đồng giữa sinh viên vẫn luôn diễn ra sôi nổi.
Có thể thấy nơi đây hoàn toàn khác biệt so với những ngôi trường thông thường, nơi hàng nghìn thanh niên, dưới danh nghĩa sinh viên, “ở chung với nhau và ít hoặc không tiếp xúc với người lớn, trẻ em, người già.” Các sinh viên cảm thông, giúp đỡ nhau và hình thành các mạng lưới chăm sóc và trách nhiệm. Những hội học sinh được thành lập như Anscombe Society, nơi mà, cũng giống như tại các trường Princeton, Stanford, Harvard và các nơi khác, nghiên cứu về tác động của cuộc cách mạng tình dục đối với đạo đức tình dục, hôn nhân và gia đình. Các sinh viên nữ tại Ave Maria cũng thành lập một nhóm Nữ quyền chính thống (Genuine Feminine), nhằm nghiên cứu sự khác biệt giữa hai giới tính, tác động của cuộc cách mạng tình dục, và cách để giúp mọi người theo đuổi, tạo dựng những mối quan hệ tốt hơn.
Giáo xứ Ave Maria cũng tổ chức các nhóm và chương trình cho các cặp vợ chồng, cho nam giới, cho các mục vụ và nhóm khác nhau. Cũng như ở các giáo xứ khác, các nhóm và hoạt động chính thống sẽ giúp đỡ những mạng lưới hỗ trợ và kiểm soát nhằm nuôi dưỡng, thúc đẩy những phẩm chất cần thiết cho một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Ví dụ một giáo xứ ở Colorado là Gia đình của Bethany (Families of Bethany), là nơi kết nối các cặp đôi vào các nhóm, nơi các hoạt động gắn kết thường diễn ra, chẳng hạn như nhóm các quý ông gặp mặt hàng tuần để thưởng thức cà phê trước giờ làm việc, và họ cũng đang lên kế hoạch cho việc học Kinh thánh nhóm.
Những hoạt động như vậy, dù mang tính nghi thức hay không, có thể là điều cần thiết cho một văn hóa hôn nhân lành mạnh. Nhưng những hoạt động đó thường rất ít, đặc biệt là trong những cộng đồng bị ảnh hưởng bởi văn hóa buông thả (hookup culture). Mọi thứ trong nền văn hóa đại chúng – phim ảnh, chương trình truyền hình, âm nhạc – đều bị bão hòa với yếu tố tình dục. Văn hóa phẩm đồi trụy với độ phân giải cao đều đang phổ biến và gây nghiện – một loại tình dục rẻ tiền đã làm rẻ rúng hóa ý nghĩa của tình dục. Ngay cả trong loạt phim trinh thám nghiêm túc dường như cũng bắt buộc truyền tải những thông điệp giảng giải nhằm bình thường hóa các hoạt động tình dục không chính thống và phủ nhận sự tan vỡ của các gia đình đã ly hôn.
Vì nên, câu hỏi liệu rằng hôn nhân ngày nay còn mang tính khả thi không, câu trả lời của tôi là có, nhưng rất ít, và chỉ khi có sự hỗ trợ của cộng đồng cùng với cam kết cá nhân. Bởi vì trong thế giới tan vỡ của chúng ta dường như không còn miền đất hứa.
***
Paul Adams là giáo sư danh dự về xã hội học tại trường Đại học Hawaii, đồng thời là giáo sư và phó trưởng khoa về giao dịch quốc tế tại trường Đại học Case Western Reserve. Ông cũng là đồng tác giả của cuốn sách “Sự thực về công bằng xã hội” (Social Justice Isn’t What You Think It Is), ông chuyên viết về chính sách phúc lợi xã hội và đạo đức nghề nghiệp.
Paul Adams _ Anh Thư
Views: 0