Elisabeth Nguyễn
Sự sống của con người là một mầu nhiệm Thiên Chúa ban cho loài người từ hư không, là nghĩa cử cao cả đầu tiên của tình yêu và lòng thương xót của Ngài. „Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta“ (St 1,26), là món quà kỳ diệu, loài người được hiện hữu trên mặt đất.
Sự sống của con người bắt đầu từ thuở tôi còn trong lòng mẹ, Người đã gọi tôi (Gr 1, 4-5a) là một kỳ công vô cùng huyền nhiệm. Từ khai thiên lập địa tới ngày nay, con người ta, dù thông minh xuất chúng đến đâu, cũng vẫn chưa khám phá hết những kỳ công của toàn thể tế bào hoạt động trong thân thể con người và những tinh tú cùng mọi tạo vật trong vũ trụ.
Tôi đã sống như thế nào để tạ ơn tình yêu cao cả và lòng thương xót Thiên Chúa ban, để khỏi thẹn thùng vì thấy mình được yêu thương quá nhiều, nhưng lại yêu thương Đấng Tạo Thành mình quá ít. Ngài là một hữu thể hiệp thông tình yêu của ba ngôi vị. Thiên Chúa cho tôi được thông phần kết hợp vào đức khôn ngoan của Con Một Chúa, ý chí của Thánh Thần Chúa và sự tốt lành khôn tả của Ngài, tràn đầy trong thân thể, trong tâm trí và trong linh hồn, để tôi được sống, sống sung mãn theo ý Ngài.
Suốt nửa đời người tôi chỉ biết hưởng thụ cuộc sống với đầy đủ những tạo vật Ngài ban cho mà không hề biết ghi ơn, tạ ơn, vì không biết Ngài là ai, không biết rằng Ngài đã chăm sóc thương yêu tôi từ khi tôi vừa lọt khỏi lòng mẹ, „Đưa con ra khỏi thai bào, vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn. Chào đời con được dâng cho Chúa, được Ngài là Chúa tự sơ sinh“ (Tv 22,10-11). Mãi đến khi tôi được Chúa Thánh Thần chạm mạnh vào trái tim chai đá, gõ mạnh vào tâm hồn khô khan của tôi, từ đó, tôi biết lắng nghe tiếng gọi của Ngài trong nhiều giờ thinh lặng với Ngài, tôi nhận ra tất cả cuộc sống của tôi từ tấm bé đến bây giờ là những hồng ân siêu nhiên từ Ngài. Nếu không có Thần Khí Chúa hoạt động mạnh mẽ trong tâm hồn tôi, không có sự hướng dẫn của Ngài thì chắc chắn cuộc đời tôi đã theo chiều hướng của phường tội lỗi, phường ác nhân.
**
Tôi đã trải qua những ngày sống triền miên trong sợ hãi… khổ sở, thiếu thốn và bị áp bức trong những năm tháng dài sau năm 1975. Tôi đã có lần khổ sở vì giằng co, vật lộn giữa chính sự tuyệt vọng tột cùng của mình với sự phản ứng phản xạ tự nhiên muốn sống trong con người mình.
Sau khi di tản trở về nhà thì chỉ còn căn nhà trống, (nhà còn vì ở trong hẻm) đôi đũa ăn cơm cũng không còn. Chồng đi tù cải tạo (nhà nước việt cộng nói sĩ quan thì đi học tập 10 ngày mà bốn năm rồi chưa thấy về). Một mình tôi bươn chải làm đủ mọi việc tay chân nuôi bốn đứa con mà vẫn không đủ sống. Cảnh bữa đói, bữa no xảy ra hằng ngày kéo dài đến chán nản, bất lực, cùng lúc luôn bị công an của nhà nước đến đe dọa đủ điều, đuổi mẹ con tôi đi kinh tế mới. Dầu khổ sở, thiếu thốn như vậy, Chúa cho mẹ con chúng tôi cũng vẫn giữ được liên tục không bỏ lễ ngày Chúa Nhật. Tạ ơn Chúa!
Tôi đã quá sức tuyệt vọng, không đêm nào ngủ yên vì sợ công an đến xét nhà rồi kiếm cớ bắt tôi đi tù nữa thì những đứa con bé bỏng của tôi nương nhờ vào đâu mà sống! Có một ngày vào mùa mưa dầm ở Dalat kéo dài cả tháng, mẹ con tôi không có gì… suốt mấy ngày chỉ trông mong vào giàn su su sống qua ngày.
Lợi dụng những ngày mưa dầm tôi và chị bạn đồng cảnh, cùng xóm rủ nhau đi vào làng Laba, Tùng Nghĩa (một quận ở dưới đèo Prenn Dalat) mua cà phê về bán, (vì nghĩ mưa như thế này thì các trạm công an sẽ không khám kỹ mà bắt bớ). Nhưng đâu ngờ, khi chị em đi qua trạm thì bị công an bắt giữ và lấy hết, dù chúng tôi, mỗi người chỉ có 2kg cà phê, đó là tất cả vốn sống của chúng tôi, Hai chị em năn nỉ, khóc lóc ca cẩm đủ điều, mà không hề được cho nhận lại mà còn bị nhục mạ. Tôi tủi thân và phẫn uất quá sức, phần thì lo lắng các con ở nhà, phần thì vì những lời hỗn láo, sỉ nhục của cậu công an non choẹt, đã như một giọt nước tràn ly. Cầm lòng không nổi, tôi tức tối khổ sở vừa khóc vừa la lối, lên án sự áp bức những bà mẹ có chồng đi cải tạo như chúng tôi… nên họ nhốt hai chị em ở lại một đêm. Cả đêm hai chị em chỉ biết khóc và thương đàn con coi cút ở nhà, chắc các con cũng lo lắng không biết mẹ đi đâu? Mẹ làm sao rồi. Con của chị bạn thì đã lớn chứ các con tôi thì còn nhỉ cả.
Khoảng 3 giờ sáng, họ mở cửa, đuổi hai chị em ra. Chúng tôi nhất định không ra khỏi, vì trời tối và rất lạnh, vắng vẻ, sương mù dầy đặc, mà trong người không một xu, bụng đói, người mệt lả, cộng với nỗi phẫn uất còn sôi sục trong người và nỗi hãi sợ, nhỡ ra họ gài bẫy bắt hay giết chị em mình thì sao… Khi trời sáng, rất ngạc nhiên, có một người đàn bà nhà quê lớn tuổi xuất hiện và cho chúng tôi hai gói xôi còn nóng hổi, rồi dắt chị em tôi ra đón xe đò cho chị em tôi về lại Dalat. Bà ta không nói lời nào, chỉ nhìn chúng tôi cách thương xót. Tạ ơn Chúa.
Các con tôi vẫn đến trường, mà thật đáng thương vì quá sức thiếu thốn tất cả mọi mặt, cái ăn cái mặc, tôi không biết trông mong vào đâu, tuyệt vọng tiếp nối tuyệt vọng và tâm trí bắt đầu nghĩ quẩn. Suốt đêm không ngủ được, không biết chồng đi tù đến khi nào mới được ra, mẹ con sống khốn khổ như vầy… tồn tại được đến bao giờ, có hy vọng gì, hy vọng vào đâu bây giờ… khi mà hai bàn tay và khối óc của mình không lo được cho các con no đủ…
Ôi! Tôi tủi thân tủi phận chỉ còn biết rấm rức khóc… và khóc… mà thôi. (không dám khóc to sợ các con biết), chỉ mong mình và các con cùng được chết, chứ sống làm chi với chế độ khắc nghiệt này. Cả đêm cứ nghĩ quẩn… trằn trọc giằng co giữa tuyệt vọng với phản xạ sự sống tự nhiên của con người… trách nhiệm với chồng con, cha mẹ, họ hàng ra sao?!… thất vọng, tuyệt vọng thiếp chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.
Sáng thức dậy, nhìn lại, tôi thấy mình lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng giống như người đàn bà góa nghèo khó, trong sách Các Vua quyển I. Bà góa nói với tiên tri Elia, khi tiên tri phải đi lánh nạn và vào nhà bà xin ăn: „Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi tìm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi ăn rồi chết“ (1V 17, 12b). Khi tâm hồn tỉnh táo mới thấy mình quá ngu muội. Cám ơn Chúa đã giải thoát con khỏi những ý nghĩ ngu si, xuẩn ngốc làm xúc phạm đến thánh danh Chúa.
Tạ ơn Chúa! Thiên Chúa biết rõ mọi sự và Ngài yêu thương những con người cùng khổ, Ngài đã can thiệp bằng cách cho chúng tôi gặp một thiên thần là cô hàng xóm của ba mẹ tôi đến giúp đỡ chúng tôi thật ân cần. Ngài cởi bỏ sợi dây oan nghiệt đang xiết chặt đời tôi, đã giải thoát tôi khỏi nỗi tuyệt vọng, ban cho tôi niềm hy vọng, để gia đình tôi được chắp cánh sống trong tình yêu của Ngài như hiện nay ở hải ngoại.
Lạy Chúa, con cám ơn và vinh danh Chúa đã gìn giữ con khỏi sa chước cám dỗ làm mất lòng Chúa. Amen.
Elisabeth Nguyễn
Views: 0