Dr. Lương Huỳnh Ngân chuyển ngữ
THÁNH VỊNH CN XXIV TN B ( Tv114, 1-9) 12/09/2021
1 Lòng tôi yêu mến Chúa, vì CHÚA đã nghe tiếng tôi khẩn nài,
2 Người lại lắng tai ngày tôi kêu cứu.
3 Dây tử thần đã bủa vây tôi chằng chịt,
lưới âm ty chụp xuống trên mình.
4 Gặp gian truân sầu khổ, tôi đã kêu cầu danh CHÚA :
“Ôi lạy CHÚA, xin cứu gỡ mạng con !”
5 CHÚA là Đấng nhân từ chính trực,
Thiên Chúa chúng ta một dạ xót thương,
6 hằng gìn giữ những ai bé mọn,
tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi.
7 Hồn tôi hỡi, thôi bình tĩnh lại,
vì trên ngươi, CHÚA đã xuống ơn lành ;
8 Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết,
giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ,
ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân.
9 Tôi sẽ bước đi trước mặt Người
trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Đây là lời cầu nguyện của dân tộc có đức tin. Họ đã trải nghiệm, chính ngay trong lúc sự đau khổ rằng Thiên Chúa đứng về một phe với họ « 10 Tôi đã tin cả khi mình đã nói : “Ôi nhục nhã ê chề ! » (Câu 10 chúng ta không đọc hôm nay). Sự nhục nhã nói ở đây là kiếp nô lệ bên Ai-cập : Mười lần vua Pha-ra-on hứa cho tự do, nhưng cuối cùng lần nào ông cũng cư xử như kẻ thù nghịch. Chỉ có Thiên Chúa mới luôn cố gắng giải thoát dân Ngài và giúp họ trốn về xứ. Các câu đầu bài thánh vịnh giải thích bối cảnh ấy :
«1 Lòng tôi yêu mến Chúa, vì CHÚA đã nghe tiếng tôi khẩn nài,
2 Người lại lắng tai ngày tôi kêu cứu.
3 Dây tử thần đã bủa vây tôi chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình.
4 Gặp gian truân sầu khổ, tôi đã kêu cầu danh CHÚA : “Ôi lạy CHÚA, xin cứu gỡ mạng con !” Lưới âm ty ở đây là Ai-cập, nhưng sau nhiều thế kỷ có nhiều thứ xiềng xích khác. Mọi người đều biết mặc dù chúng ta có vẻ tự do, chúng ta cũng bị xiềng xích.
Có một loại trong những xiềng xích ấy, tệ nhất các thứ gông xiềng là trong trí ta có một hình ảnh sai lệch về Thiên Chúa. Ví dụ như tưởng tượng một Thiên Chúa đối thủ với con người ( như trong huyền thoại Lưỡng Hà) hay tưởng tượng một Thiên Chúa thèm khát hy lễ người sống (như các tôn giáo vùng Ca-na-an). Khi dân It-ra-en vừa vào đất Ca-na-an, họ gần gũi với dân bản xứ có tôn giáo đòi hỏi hy lễ người sống, cũng phải khó khăn lắm để cưỡng lại khỏi bị ảnh hưởng, nhưng không phải lúc nào cũng thành công. Khi mọi sự tồi tệ, sợ chiến tranh, sợ tai ương, ai cũng có thể làm bất cứ điều gì. Trong những lúc ấy, nếu có ai thuyết phục để vị thần nào đó ban cho điều ta ước muốn, thì chúng ta cũng sẵn sàng làm mọi sự…Vì thế hồi thế kỷ thứ VIII trước CN vua A-khát đã tế lễ con trai ông để cứu vương quốc của mình. Cũng chính trong giai đoạn ấy được viết về sự thử thách ông Ap-ra-ham trong sách Sáng thế. Sự khám phá tuyệt vời của Ap-ra-ham là Chúa muốn mọi người được sống, không có cái chết nào tôn vinh Ngài. Chúa không muốn của lễ loại ấy… «15 Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người ». Vì thế chúng ta hiểu vì sao bài thánh vịnh này được đề nghị cho chúng ta như tiếng vang cho bài tường thuật về cuộc thử thách ông Áp-ra-ham.
Sự khám phá ra «15 Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người » không phải lúc nào cũng được nhớ đến. Con rắn trong vườn Địa Đàng ám chỉ Thiên Chúa muốn con người phải chết…và chính Thánh Kinh quả quyết điều ấy là một chước cám dỗ không bao giờ nên sa ngã. Nhưng sở dĩ Thánh Kinh nhấn mạnh như thế là vì sự cám dỗ ấy không ngớt trở đi trở lại, cho rằng Thiên Chúa là một đối thủ ganh tị với sự tự do của chúng ta. Chúa có vẻ xem mạng sống chúng ta như một trò chơi tuỳ sở thích. Dĩ nhiên quan hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa hệ tại hình ảnh chúng ta tưởng tượng về Ngài. Trong mô hình ngoại đạo, có thể nói có hai giai đoạn : Trước hết con người mong muốn điều gì đó ; kế đến giai đoạn thứ hai để đạt tới mục đích, con người thử tán tỉnh thần thánh bằng đủ mọi cách, kể cả tế lễ người, nếu cần. Ngược lại bài thánh vịnh hôm nay đề nghị một thái đô của đức tin, tức là đi ngược hẳn lại mô hình kia. Cũng có hai giai đoạn nhưng ngược lại.
Giai đoạn đầu, chính Chúa lấy sáng kiến. Ngay từ đầu Ngài lấy sáng kiến ; với A-đam, với Nô-ê, với Áp-ra-ham mỗi lần chính Chúa nhắc lại sự hiện diện của Ngài và Giao Ước để con người hạnh phúc chứ không phải vì quyền lợi chi của Ngài, Thiên Chúa của họ. Thế rồi dân chúng đau khổ bên Ai-cập, Thiên Chúa đến giải cứu : « Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng.8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập…Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập.10 Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. » (Xh3,7…10) Và Chúa đã giải thoát dân Ngài.
Giai đoạn thứ hai, để đáp lại – và chỉ để đáp lại mà thôi – dân chúng cảm tạ Thiên Chúa, nhìn ra công trình của Ngài : « 12 Biết lấy chi đền đáp CHÚA bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho ? Kể từ nay lễ tạ ơn không chỉ được cử hành bằng những của lễ trong Đền Thánh mà còn nhất là trong cách sống hằng ngày bằng vâng phục thánh ý Chúa : (các câu 17-19 không được đọc hôm nay ) « 17 Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA.
18 Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người,
19 tại khuôn viên đền CHÚA, giữa lòng ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem ! Ha-lê-lui-a »
Dĩ nhiên, bài Thánh Vịnh này là một trong các thánh vịnh « ha-len » (các Tv từ 113 đến 118 được hát trong ngày Lễ Vượt Qua Do Thái, sau bữa cơm). Chúa Giê-su đã hát bài này ngày thứ Năm Tuần thánh, thánh sử Ma-thêu nói : « 30 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu » (Mt 26,30) . Và thật lạ lùng mối quan hệ giữa thánh vịnh này với thánh vịnh 22 Chúa đọc trên thập giá : « 2 Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? » (Tv22,2). Bài này và bài kia cả hai đều gợi lên sự đau khổ. Chúng ta vừa nghe tiếng kêu ngày Thứ Sáu trên thập giá, câu này đáp lại câu 10 không được đọc hôm nay : « 10 Tôi đã tin cả khi mình đã nói : “Ôi nhục nhã ê chề ! ». Cả hai bài kết thúc bằng lời tạ ơn. Tv 21 (22) (26 ,24-25) :
« 26 Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng, ngày đại hội toàn dân. Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Người.
24 Hỡi những ai kính sợ ĐỨC CHÚA, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ít-ra-en tất cả, nào một dạ khiếp oai!
25 Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu »
Như một tiếng vang bài Thánh Vịnh chúng ta hôm nay cũng đi tới một quyết định trong hai câu cuối 18-19 (không được đọc hôm nay) : « 18 Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người, 19 tại khuôn viên đền CHÚA, giữa lòng ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem ! Ha-lê-lui-a. »
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng
Views: 0