Dr. Lương Huỳnh Ngân chuyển ngữ
“Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?”
8 Thấy con ai cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai:
9 “Nó cậy CHÚA, mặc Người cứu nó!
Người có thương, giải gỡ đi nào! “
17 quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
18 xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
19 Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn.
20 Chúa là sức mạnh con nươn
cứu mau, lạy CHÚA, xin đừng đứng xa.
23 Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
cho anh em tất cả được hay,
và trong đại hội dân Ngài,
con xin dâng tiến một bài tán dương.
24 Hỡi những ai kính sợ ĐỨC CHÚA,
hãy ca tụng Người đi!
Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp,
nào hãy tôn vinh Người!
Dòng dõi Ít-ra-en tất cả,
nào một dạ khiếp oai!
Thoáng đọc qua, thật tình tưởng như bài ThánhVịnh 21(22 ) này được viết đặc biệt cho Chúa Giê-su, ví dụ như câu 17-18: «Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, 18 xương con đếm được vắn dài», đúng là bài miêu tả cảnh hành quyết trên thập giá, dưới ánh mắt tàn nhẫn – có thể có ít nhiều tính tò mò bệnh hoạn – của các đao phủ và đám đông: «quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa; 19 Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn.»
Thật vậy, Chúa Giê-su đã sống những cảnh tương tự. Tuy nhiên, bài Thánh Vịnh này không viết cho Ngài; hơn nữa, chuyện kể về việc đóng đinh trên thập gíá không phải là trung tâm của đề tài.
Bài Thánh Vịnh không viết cho Chúa Giêsu, lý do dễ hiểu là bài này được viết sau khi được giải thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon. Sở dĩ tôi nói nhiều về Ba-by-lon, vì đó là một giai đoạn quyết định trong đời sống và đức tin của dân Chúa chọn: một giai đoạn ghê gớm, khủng khiếp… và đồng thời, cũng là thời điểm của lòng tin và cầu nguyện liên lỉ, thời gian của tái khám phá Lời Chúa, và lòng cậy trông.
Để trở về với Thánh Vịnh này, bài được viết và được hát như một thánh ca lúc thoát cảnh lưu đày Ba-by-lon. Ngày trở về này ví như một tử tù được sống lại: It-ra-en được ví như một tử tù suýt chết trên thập giá (Xin đừng quên thời ấy cách xử tử bằng thập giá rất thông thường). Người tử tù này bị lăng nhục nặng nề, phỉ nhổ, đóng đinh, thí mạng vào tay những đao phủ… và rốt cuộc, được thoát nạn như một phép lạ, không chết. Và từ nay, người tử tù này sống trong niềm hân hoan reo mừng cho khắp mọi người nghe, còn to tiếng hơn lời than thở lúc tuyệt vọng. Như thế, việc đóng đinh trên thập giá đâu phải cốt lõi của câu chuyện, mà chỉ để minh họa rõ hơn lời tạ ơn của kẻ (It-ra-en) vừa được thoát một sự kiện kinh hoàng.
Giữa lúc khốn cùng, người bị nhục hình không ngưng kêu cầu cứu, và không một giây phút nào ngờ vực rằng Thiên Chúa sẽ lắng nghe. Lời kêu van mà chúng ta biết rõ “2 Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?” đúng là một lời van xin trước sự im lặng của Thiên Chúa, nhưng không phải một lời tuyệt vọng. Trái hẳn lại! Đây là lời cầu nguyện của một kẻ đau khổ, mà dám kêu lên sự đau khổ của mình. Thì đây, chúng ta cũng được soi sáng về lời cầu nguyện của chúng ta khi gặp những lúc đau khổ, bất cứ sự đau khổ ấy từ đâu đến: Chúng ta có quyền kêu van, Thánh Kinh mời gọi chúng ta làm như thế.
Bây giờ chúng ta nên xét kỹ câu “2 Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa”, câu này nói lên trải nghiệm bị bỏ rơi, trong lúc hoàn toàn khốn cùng. Một trải nghiệm không thể chối cãi, mà dân It-ra-en đã gánh chịu trong suốt lịch sử… Thế nhưng, chỉ riêng cụm chữ: “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa” chứng tỏ cho chúng ta rằng, không bao giờ họ mất lòng tin, Chúa sẽ cứu và giải thoát họ. Câu này không phải ngẫu nhiên với ý nghĩa tầm thường: chỉ câu này thôi, đủ nhắc lại Giao Ước với Thiên Chúa: “22 Các ngươi sẽ là dân Ta chọn, và Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (Gr 30, 22), câu này luôn được nói lên, mỗi khi đề cập đến Giao Ước. Trong Thánh Kinh mỗi lần chúng ta đọc “Dân ta” hay “Chúa của các ngươi” … là chúng ta phải hiểu, đây là nói tới Giao Ước với Thiên Chúa.
Vì thế, bài Thánh Vịnh này, thật ra là bài thánh ca lúc trở về, sau bao nhiêu năm lưu đày. It-ra-en tạ ơn Chúa. Họ nhớ đến những đau khổ đã qua, những lúc lo lắng trước Thiên Chúa có vẻ thinh lặng. Họ có cảm tưởng bị bỏ rơi trong tay địch thù, nhưng… cứ tiếp tục cầu nguyện. Lời cầu nguyện, và chỉ lời cầu nguyện này thôi, cũng chứng tỏ họ không hoàn toàn mất hy vọng. Nếu không phải thế, thì họ cũng chẳng cầu nguyện nữa! It-ra-en tiếp tục nhắc nhở nhau Giao Ứớc và những hồng ân từ Thiên Chúa.
Xét cho cùng, bài Thánh Vịnh này giống như một lời nguyện hứa của chúng ta: Trước cảnh ngặt nghèo, chúng ta cầu nguyện và dâng một lời khấn (đại loại như nếu con thoát qua, con sẽ dựng một bia cho thánh… nào đó) và sau đó, nếu được toại nguyện thì giữ lời hứa ấy. Ví dụ như dưới miền Nam nước Pháp, trên các bức tường của những nhà thờ có đầy rẫy những bức tranh, miêu tả những cảnh nguy khó được thoát nạn trong quá khứ. Trong đầu tôi còn nhớ rõ, một bức tranh thật thảm thương của một cuộc đắm thuyền dưới sông Rhône; trong ấy, cho thấy những cha mẹ bất lực nhìn các con của mình dưới nước: chính những người đã khấn, thuê vẽ những bức tranh này khi các con của họ thoát chết. Bức tranh ấy có ý nói lên: đấy chuyện suýt nữa đã xảy ra như thế này.
Thánh Vịnh 21 của chúng ta giống như thế. Bài nói lên lòng tuyệt vọng, tình cảnh bất lực trước sự thử thách; và sự thử thách ở đây là lòng hận thù của loài người “2 Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?”, chúng ta có thể hiểu, sao Ngài “bỏ mặc chúng con cho sự hận thù của kẻ dữ?” Chúa biết dân It-ra-en đã chạm trán rất nhiều lần với lòng hận thù của con người… nhưng bài Thánh Vịnh này còn nói hơn thế nữa. Cũng như những lời khấn của chúng ta, bài này nói lên tất cả lòng tạ ơn của kẻ đã chịu ơn Thiên Chúa; và chỉ từ Thiên Chúa mà thôi, mới có sự tự do của họ ngày nay.
«23 Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa, cho anh em tất cả được hay»
Theo cách nói của Thánh Kinh, đó là cách nhìn nhận Chúa, luôn luôn can thiệp để giải thoát. Và lời tạ ơn tiếp tục:
«và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. 24 Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi!»
Những câu sau của bài Thánh Vịnh, chỉ là những lời tạ ơn và tán dương. Rất tiếc, chúng ta không đọc hết trong Lễ Lá hôm nay. Có lẽ, nên chăng chúng ta phải thuộc lòng?
27 Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê,
người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng.
Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
28 Toàn thế giới, muôn người nhớ lại
và trở về cùng Chúa.
Mọi dân tộc dưới trần
phủ phục trước Tôn Nhan.
29 Bởi vì Chúa nắm quyền vương đế,
Người thống trị chư dân.
30 Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa,
31 con cháu tôi sẽ phụng sự Người.
Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa
cho thế hệ tương lai,
32 truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người,
rằng: “Đức Chúa đã làm như vậy!”
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng
Views: 0