Dr. Lương Huỳnh Ngân chuyển ngữ
“Này là tôi tớ Ta, Ta hài lòng về người“
Trích sách Tiên tri Isaia (Is 42, 1-4. 6-7) 13/01/2019
Bài ca người Tôi Trung – Bài thứ nhất
1 Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ,
là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng,
Ta cho thần khí Ta ngự trên nó;
nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.
2 Nó sẽ không kêu to, không nói lớn,
không để ai nghe tiếng giữa phố phường.
3 Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy,
tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.
Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý.
4 Nó không yếu hèn, không chịu phục,
cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu.
Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.
6 Người phán thế này: “Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã gọi ngươi,
vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta.
Ta đã nắm tay ngươi,
đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân,
làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,
7 để mở mắt cho những ai mù loà,
đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ,
dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.
Đoạn này thuộc phần thứ hai sách I-sa-i-a. Tác giả – người ta gọi là «I-sa-i-a Hai» – đã sống và rao giảng trong thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, tức thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên. Vì là thời điểm đặc biệt thảm khốc nhất lịch sử Do Thái, nên ông dùng hết công sức để đem lại lòng can đảm cho đồng bào của ông.
Người ta còn gọi sách này là «Sách An Ủi Dân Ít-ra- en». Chính trong phần này mà người ta tìm thấy 4 đoạn văn khá đặc biệt (Hình như các phần này được thêm vào sau đó), các phần ấy được gọi là «Bài Ca Người Tôi Trung».
Dù gì đi nữa, về văn thể các đoạn này rất hoà hợp với sách An Ủi Dân It-ra-en, vì đây cũng là các sứ điệp của niềm cậy trông. Các đoạn này miêu tả một nhân vật bí ẩn, không bao giờ được nêu tên nào khác hơn là «Người Tôi Trung»; nhân vật này có nhiệm vụ thực hiện công trình của Thiên Chúa, đó là chương trình cứu độ.
Khác với người ta tưởng, nội dung chính của bài này không nhằm đến Người Tôi Trung, mà người đọc đoán biết là ai;
nội dung chính là công trình của Thiên Chúa, ý Chúa muốn cứu cả nhân loại. Đây là một trong bốn Bài Ca Người Tôi Trung. Tôi ghi nhận ba điểm:
– Điểm thứ nhất, Người Tôi Trung được Chúa chọn: «… người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng» Sự chọn lựa đó theo cách nói của Thánh Kinh là một sứ vụ; vì là một sứ vụ, người Tôi Trung này luôn luôn được Thiên Chúa nâng đỡ và trợ giúp trong sứ vụ ấy.
«Ta cho thần khí Ta ngự trên nó;…4 Nó không yếu hèn, không chịu phục,
cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu»
Trong Bài Ca Thứ Hai của Người Tôi Trung mà chúng ta sẽ nghe trong tuần sau cũng được triển khai một nội dung này.
– Điểm thứ hai, sứ vụ này là một hành động công lý: Chữ công lý được lập lại nhiều lần: «… nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân; cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu.»
Nhưng chính chỗ này làm cho chúng ta ngạc nhiên, vì công lý ở đây không có nghĩa là phán quyết. Thông thường khi nói tới công lý chúng ta nghĩ tới buộc tội, nhất là khi nói tới công lý Thiên Chúa.
Nhưng ở đây, không phải là một bản cáo tội mà là một cuộc xử «trắng án»!
Giọng uy quyền trong phần khởi đầu, thật long trọng ở câu 1 «Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân»,
trái ngược với nội dung dịu dàng và tôn trọng những gì mong manh: cây lau bị giập, tim đèn leo lét. «Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi»
Thế công lý ở đâu?
«7 để mở mắt cho những ai mù loà,
đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ,
dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.»
Tại sao có sự liên kết giữa hai chữ «Ngục» và «Tối tăm»? Đơn giản là thời đó trong ngục không có cửa sổ. Ra khỏi ngục là tìm lại ánh sáng, còn có khi bị loà sau một thời gian lâu trong ngục. Chúng ta lại tìm thấy những hình ảnh về ngục tù và ánh sáng trong (Is 61, 1)
«Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, (ra ánh sáng chói loà)» (rất tiếc bản dịch Việt Ngữ chúng ta bỏ chữ ánh sáng chói loà)
– Điểm thứ ba: điểm này thật là quan trọng: bài đọc bắt đầu xác định, đây là một sự tuyển chọn người Tôi Trung, nhưng bây giờ lại nói tới tính cách hoàn vũ của công trình Thiên Chúa. Tất cả phần triển khai về công lý được đóng khung trước và sau bằng hai sự khẳng định về các dân tộc, tức là cả loài người.
Điều thứ nhất «nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân»
Điều thứ hai «đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước»
Ở giữa bài đọc cũng một lời khẳng định ấy:
«Cây lau bị giập , nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. 4 Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo»
Qua đó, chúng ta không thể nào nói rõ hơn ý Chúa là ý cứu độ, và giải thoát, nhắm tất cả nhân loại. Người Tôi Trung chờ đợi «Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo», tức là chương trình Cứu Độ.
Sau cùng tôi xin lưu ý: thời ấy theo truyền thống, người ta chờ đợi đấng cứu độ là đấng Mê-si-a. Chính Đấng này sẽ thiết lập triều đại của Thiên Chúa trên hoàn cầu và đem lại hạnh phúc và tự do. Thế nhưng, với những bài ca Người Tôi Trung, Thánh kinh mang lại một chân dung khác của đấng Mê-si-a: một người tôi tớ,
Bài Ca Người Tôi Trung thứ ba và thứ tư còn nói tới Người Tôi Trung bị hành hạ.
Dĩ nhiên vài thế kỷ sau, các Tông Đồ của Chúa Giêsu, múc từ những bài này những điều cốt lõi để hiểu «mầu nhiệm ô nhục» của Thánh giá Chúa Ki-tô. Chúng ta sẽ tìm thấy trong bài Phúc Ấm hôm nay.
***
Tiếng CHÚA lay động cả rặng sồi
(Tv 28, 1-4. 9-10) 13/01/2019
1 Thánh vịnh. Của vua Đa-vít
Hãy dâng CHÚA, hỡi chư thần chư thánh,
dâng CHÚA quyền lực và vinh quang.
2 Hãy dâng CHÚA vinh quang xứng danh Người,
và thờ lạy CHÚA uy nghiêm thánh thiện.
3 Tiếng CHÚA rền vang trên sóng nước,
Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm,
CHÚA ngự trên nước lũ mênh mông.
4 Tiếng CHÚA thật hùng mạnh!
Tiếng CHÚA thật uy nghiêm!
9 Tiếng CHÚA lay động cả rặng sồi,
tuốt trụi lá cây cao rừng rậm.
Còn trong thánh điện Người,
tất cả cùng hô: “Vinh danh Chúa! “
10 CHÚA ngự trị trên cơn hồng thuỷ,
CHÚA là Vua ngự trị muôn đời.
Bài thánh vịnh này phong phú đến độ không biết phải bắt đầu từ đâu! Không may, một lần nữa, hôm nay chúng ta chỉ nghe trích một đoạn ngắn; tuy nhiên cũng khá tiêu biểu cho cả bài, đặc biệt câu sau cùng.
«9 Tiếng CHÚA lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: “Vinh danh Chúa!” CHÚA ngự trị trên cơn hồng thuỷ, CHÚA là Vua ngự trị muôn đời».
Tất cả có trong chương này:
Bão tố «9 Tiếng CHÚA lay động cả rặng sồi»
Xóm «Vinh danh Chúa!»
trong đền; «CHÚA là Vua».
Điều đầu tiên chủ đề thứ nhất chúng ta cùng suy nghĩ về bão tố, «lay động cả rặng sồi», vì muốn hiểu rõ bài thánh vịnh này với cả mãnh lực của nó, phải tưởng tượng đến sức mạnh của một cơn bão lớn.
Những cơn gió lốc quét sạch cả xứ Pa-lét-tin, xứ Li-băng, xứ Héc-mon (ở đây gọi là «Xia-giôn»), đến sa mạc miền bắc, đến Ca-đê miền nam.
Chúng ta đã nghe như một tiếng vang, câu: «9 Tiếng CHÚA lay động cả rặng sồi», và nhất là các câu giữa bài, chúng ta không đọc hôm nay. Tôi xin đọc các câu ấy:
«Tiếng CHÚA thật hùng mạnh! Tiếng CHÚA thật uy nghiêm!
5 Tiếng CHÚA đánh gãy ngàn hương bá,
CHÚA đánh gãy ngàn hương bá Li-băng.
6 Người làm cho dãy Li-băng thành như bê nhảy nhót,
đỉnh Xia-giôn khác nào nghé tung tăng.
7 Tiếng CHÚA phóng ra ngàn tia lửa,
8 tiếng CHÚA lay động vùng sa mạc,
lay động vùng sa mạc Ca-đê.
Thế tiếng Chúa ở đâu mà có thể lay động cả sa-mạc?
Dĩ nhiên là trong Si-na-i. Chúng ta còn nhớ sách Sáng Thế, lúc Chúa đề nghị Giao-ước với Mô-sê: «16 Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ.
17 Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa họ đứng dưới chân núi.
18 Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì ĐỨC CHÚA ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh.19 Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. (Xh 19, 16-19)
Hẳn các bạn cũng biết sách «Tác-gum» (Bản dịch Sách Sáng Thế bằng tiếng Can-đê), so sánh tiếng Chúa ban mười điều răn cho ông Mô-sê, như những tia lửa được thoát ra.
Bài thánh vịnh này còn đề nghị một sự đối chiếu khác nữa: «Tiếng Chúa», luôn hiện diện trong bài (chữ Tiếng Chúa được nói lên bảy lần, không phải con số ngẫu nhiên, chúng ta đều biết thế), đó cũng là tiếng nghe lúc Tạo Dựng vũ trụ và tạo vật.
Bài thánh thơ chương đầu của sách Sáng Thế lập đi lập lại «3 Thiên Chúa phán: Phải có ánh sáng … Liền có ánh sáng ;11 Thiên Chúa phán… Liền có như vậy»…
Hình như đó là cách quả quyết rằng Lời Chúa, và chỉ có Lời Ngài mới có hiệu quả. Phải hiểu từ điều đó: các bụt thần không biết nói, và chẳng làm gì, thì không có một năng lực nào. Chúng ta đã có dịp thấy bài thơ tạo dựng có những đoạn châm biếm các bụt thần.
Điều này dẫn chúng ta đến chủ đề thứ hai của bài Thánh vịnh: vương triều của Thiên Chúa.
Nếu phải tóm lược bài Thánh vịnh này, có thể nói chỉ có Thiên Chúa là vua, tất cả vương quyền khác đều giả mạo, chỉ có Ngài mới được tôn vinh và thờ lạy. Rồi đây mọi người sẽ nhìn ra Ngài và thần phục Ngài.
Tất cả, dĩ nhiên bắt đầu từ dân Ngài; nhưng, nhất là những kẻ đã dám giành lấy vinh quang dành duy nhất cho Ngài: «Hãy dâng CHÚA, hỡi chư thần chư thánh, dâng CHÚA quyền lực và vinh quang. 2 Hãy dâng CHÚA vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy CHÚA uy nghiêm thánh thiện».
Nét chống bụt thần rất rõ ràng trong bài này, và bão tố trong Thánh kinh được dùng để miêu tả triều đại Thiên Chúa đến, cuộc phán xét cuối cùng của Chúa trên thế gian, lúc các thế lực của sự dữ không còn nữa.
Sự chế ngự của Thiên Chúa hoàn vũ cuối cùng được thể hiện và lúc bấy giờ hình ảnh của nước lũ xuất hiện (c10)
«10 CHÚA ngự trị trên cơn hồng thuỷ, CHÚA là Vua ngự trị muôn đời».
Khải hoàn của I-sa-i-a cũng dùng những hình ảnh ấy:
«18 Kẻ chạy trốn khi nghe tiếng kinh hoàng sẽ sa xuống hố; kẻ dưới hố có ngoi lên được cũng mắc vào dò lưới;
các cống nước trên trời đã mở toang, nền trái đất rung chuyển.
21 Ngày ấy, trên trời, ĐỨC CHÚA sẽ trừng trị đạo binh thiên quốc, dưới đất, Người trừng trị vua chúa trần gian. 22 Chúng sẽ bị gom lại và nhốt dưới hầm sâu. Chúng sẽ bị giam trong ngục. Và sau một thời gian lâu dài, chúng sẽ bị trừng trị.
m23Vầng ô thẹn mặt, bóng nguyệt hổ mày, vì ĐỨC CHÚA các đạo binh hiển trị trên núi Xi-on và tại Giê-ru-sa-lem; và vinh quang Chúa tỏ rạng trước mặt các kỳ mục của Người. (Is 24, 18… 23)
Có một âm điệu khác nữa trong bài thánh vịnh. Lần này nói về Chúa ngự trị trên biển nước.
Ngoài công trình Tạo Dựng, ngoài lụt hồng thuỷ, trong trường hợp nào Chúa thống trị nước nữa?
Khi đưa dân chúng ra khỏi Ai-cập, dĩ nhiên. Lúc phải vượt qua Biển Đỏ, khi dân chúng trốn khỏi Ai-cập, «khỏi cảnh nô lệ» (Xh 20, 2).
Và đó là danh nghĩa vinh quang nhất của Ngài. Kể từ nay, dân Ngài chọn được giải thoát;
nhưng không, đứng ra làm chứng tá trước mọi quốc gia: Các thần thánh của họ chỉ còn phải nghiêng mình bái lạy!: «Hãy dâng CHÚA, hỡi chư thần chư thánh, dâng CHÚA quyền lực và vinh quang:10 CHÚA ngự trị trên cơn hồng thuỷ, CHÚA là Vua ngự trị muôn đời». (c1, 10)
Đến đây, chúng ta tới chủ đề thứ ba của bài Thánh vịnh.
Bài này cho chúng ta nghe trước những lời tán tụng dâng lên Chúa. Vì thế chữ vinh quang hay hiển vinh được lập lại bốn lần:1 dâng CHÚA quyền lực và vinh quang.- 2 Hãy dâng CHÚA vinh quang xứng danh Người,- 3Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, – 10 tất cả cùng hô: “Vinh danh Chúa!”
Thoạt đầu, chúng ta có thể ngạc nhiên khi thấy thánh vịnh này được chọn cho ngày Lễ Chúa Chịu Phép Rửa, bây giờ chúng ta đã hiểu lý do.
Thánh Ba-si-li-ô Cả vào thế kỷ thứ IV làm sự đối chiếu:
giữa sự kiện Chúa bước ra khỏi nước sông Gio-đan,
với tiếng Thiên Chúa vinh quang vang dội; loan báo cho thế gian các lời hứa được hoàn tất: «Nước Trời đã đến gần»
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính : Khổng Nhuận
Views: 0