Bài giảng Lễ Vọng Phục Sinh 2020
của ĐTC Phanxicô
Trần Mỹ Duyệt chuyển ngữ
“Sau ngày Sabbath” (Mt 28:1), những phụ nữ ra mộ. Tin Mừng của thánh lễ Vọng đã bắt đầu như thế: với ngày Sabbath. Nó là một ngày của Tam Nhật Phục Sinh mà chúng ta muốn bỏ quên khi chúng ta chờ đợi một cách nôn nóng đi qua từ thập giá Thứ Sáu đến vui mừng Alleluia của Chúa Nhật Phục Sinh. Mặc dù năm nay chúng ta đang trải nghiệm, hơn bao giờ hết, một sự im lặng bao trùm Thứ Bảy Tuần Thánh. Chúng ta có thể tưởng tượng chính mình trong vị trí của những người phụ nữ ngày hôm đó. Các bà, giống như chúng ta, đã nhìn thấy trước mắt một bi kịch đau thương, một thảm trạng không lường trước đã xảy đến một cách quá bất ngờ. Họ đã chứng kiến cái chết và điều này đã đè nặng tâm hồn họ. Đau đớn hòa nước mắt: Phải chăng họ đau khổ với cùng một số phận như Thầy mình? Rồi sợ hãi nữa về tương lai, và tất cả những gì cần được xây dựng lại. Một kỷ niệm đau đớn, một hy vọng bị dập tắt. Đối với họ, cũng như chúng ta, nó là một thời khắc đen tối nhất.
Nhưng trong tình huống ấy, những phụ nữ này đã không cho phép họ bị tê liệt. Họ không để bị rơi vào tình trạng đen tối của buồn bã và hối hận, họ không để sư phiền muộn gần gũi mình, hoặc trốn chạy thực tế. Họ đang làm một số việc đơn sơ nhưng mãnh liệt: chuẩn bị tại nhà những hương liệu để xức xác Chúa Giêsu. Họ không chấm dứt tình yêu trong bóng đen của trái tim mình, họ đã đốt lên ngọn đuốc của lòng thương xót. Đức Mẹ cũng đã trải qua ngày Thứ Bảy hôm đó, ngày biệt kính Mẹ, trong cầu nguyện và hy vọng. Mẹ đã đáp lại nỗi sầu bi bằng sự tín thác vào Chúa. Không biết được điều gì đối với những phụ nữ này, họ đang có những chuẩn bị, trong buổi tối ngày Thứ Bảy đó, cho “hừng đông của một ngày đầu tuần”, ngày mà nó làm thay đổi lịch sử. Chúa Giêsu như hạt giống được gieo vào lòng đất đang sắp sửa làm trổ sinh một đời sống mới trong thế giới, và những người phụ nữ này, do lời cầu nguyện và tình yêu, đang giúp cho hy vọng đó được trổ hoa. Có bao nhiêu người, trong những ngày buồn thảm này, đã làm và vẫn đang làm những gì mà các phụ nữ ấy đã làm, là gieo hạt giống của hy vọng! Bằng những cử chỉ săn sóc, cảm thông, và lời cầu nguyện.
Vào bình minh những phụ nữ đã đến mộ. Có vị thiên sứ đã nói với họ: “Đừng sợ. Người không còn ở đây, vì Người đã sống lại” (vv.5-6). Các bà đã nghe những lời của sự sống ngay khi họ đứng trước mồ… Và rồi họ đã gặp Chúa Giêsu, Đấng ban cho mọi niềm hy vọng, Đấng xác định thông điệp và nói: “Đừng sợ” (v.10). Đừng có sợ, đừng đầu hàng sợ hãi. Đây là thông điệp của hy vọng. Nó được công bố cho chúng ta hôm nay. Đây là những lời mà Thiên Chúa nhắc lại cho chúng ta chính trong đêm hôm nay.
Đêm nay, chúng ta nhận được một quyền căn bản mà không bao giờ có thể bị tước đoạt khỏi chúng ta: quyền để hy vọng. Nó là một hy vọng mới mẻ và sống động đến từ Thiên Chúa. Nó không chỉ là một chủ nghĩa lạc quan: nó không phải là một lời chúc tụng về điều mình đã hoàn thành tốt hoặc một từ ngữ rỗng tuếch dùng để khích lệ, được diễn tả với nụ cười nhạt nhẽo. Không! Nó là một tặng ân từ trời, mà chúng ta không thể tự mình có. Qua những tuần này, chúng ta tiếp tục lập lại, “Tất cả sẽ tốt đẹp”, bám lấy vẻ đẹp của con người chúng ta và cho phép những từ ngữ khuyến khích vươn lên từ trái tim của chúng ta. Nhưng khi những ngày qua đi và sự sợ hãi gia tang, ngay cả niềm hy vọng vững chắc nhất cũng có thể tan biến. Hy vọng của Chúa Giêsu lại khác. Người trồng vào tâm hồn chúng ta lòng xác tín rằng Thiên Chúa có thể làm được mọi sự trở thành tốt đẹp, bởi vì ngay vả từ ngôi mộ Người mang lại sự sống.
Ngôi mộ là nơi ở đó chưa ai đã đi vào có thể rời khỏi đó. Những Chúa Giêsu đã chỗi dậy vì chúng ta, Người đã chỗi dậy vì chúng ta, đem sự sống ở nơi chết chóc, để bắt đầu một câu truyện mới ngay ở nơi hòn đá đã che lấp. Người, Đấng đã lăn tảng đá đã được đóng ấn ở lối vào mộ, cũng có thể di chuyển những tảng đá trong tâm hồn của chúng a. Vì thế, chúng ta không được bỏ cuộc, chúng ta không đặt phiến đá trước hy vọng. Chúng ta có thể và phải hy vọng, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung thành. Người không bỏ rơi chúng ta, Người đã mời gọi chúng ta và đã đi vào những tình trạng đau đớn, thống khổ và sự chết của chúng ta. Ánh sáng của Người phá tan bóng tối của ngôi mộ: ngày hôm nay Người muốn rằng ánh sáng đó chiếu soi vào ngay cả những góc cạnh tăm tối nhất của cuộc đời chúng ta. Anh chị em thân mến, chỉ cần trong trái tim chúng ta nuôi niềm hy vọng, không ngã lòng: Thiên Chúa thì hùng vỹ hơn. Tối Tăm và sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Hãy mạnh mẽ, vì với Thiên Chúa không gì bị lạc mất!
Can đảm. Lời này thường xuyên được Chúa Giêsu nói trong các Phúc Âm. Chỉ có một lần những người khác đã nói tiếng này để khuyến khích một người có nhu cầu: “Can đảm lên, hãy đứng dậy, [Chúa Giêsu] đang gọi anh!” (Mk 10:49). Đây là Người, Đấng Đã Sống Lại, Người nâng chúng ta lên từ những thiếu thốn của chúng ta. Nếu trên hành trình của mình mà anh chị em cảm thấy yếu đuối và mỏng dòn, hoặc vấp ngã, thì đừng sợ. Thiên Chúa đưa tay nâng đỡ và nói với anh chị em: “Hãy can đảm!”. Anh chị em có thể nói như Don Abbondio (trong tiểu thuyết của Manzoni), “Can đảm không phải những gì mà bạn có thể tự cho chính mình”. (I Promessi Sposi, XXV). Đúng vậy, anh chị em không thể tự cho cho chính mình điều đó, nhưng có thể nhận nó như một tặng ân. Tất cả những gì anh chị em làm là mở rộng tâm hồn mình qua việc cầu nguyện và lăn tảng đá ra, tuy nhiên, một cách nhẹ nhàng, tảng đá đó đặt trước lối vào của trái tim anh chị em nhờ đó ánh sáng Chúa Giêsu có thể đi vào. Anh chị em chỉ cần xin với Người: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến với con và ở giữa những sự sợ hãi của con, và hãy nói với con: Can đảm lên!” Với Chúa, chúng ta sẽ bị thử thách nhưng đừng hoảng sợ. Và bất cứ nỗi buồn nào có thể ở trong chúng ta, chúng ta sẽ được tăng thêm sức mạnh trong hy vọng, với Chúa thánh giá dẫn đến phục sinh, bởi vì Chúa ở với chúng con trong sự tăm tối giữa những đêm đen của chúng con, Chúa chắc chắn ở giữa những hoang mang của chúng con, lời nói trong thinh lặng của chúng con, và không có gì có thể cướp chúng con ra khỏi tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng con.
Đây là thông điệp Phục Sinh, một thông điệp của hy vọng. Nó bao gồm phần thứ hai là sai đi. Chúa Giêsu nói, “Hãy đi và nói với anh em Thầy hãy đến Galilêa” (Mt 28:10), còn thiên thần thì bảo “Người đi trước anh em tới Galilêa” (v.7). Chúa đi trước chúng ta, Người luôn luôn đi trước chúng ta. Điều này một khích lệ để hiểu rằng Người bước đi phía trước chúng ta trong cuộc đời và trong cái chết; Người đi trước chúng ta đến Galilêa, đó là, tới một nơi mà ở đó đối với Người và các môn đệ đã gợi lên ý tưởng về đời sống thường ngày, về gia đình, và về công việc. Chúa Giêsu muốn chúng ta mang lại niềm hy vọng tới đó, đối với cuộc sống thường ngày của chúng ta. Vì với các môn đệ, Galilêa cũng là một nơi gợi nhớ, là nơi ở đó họ lần đầu tiên được mời gọi. Trở về Galilêa còn có nghĩa là nhớ lại rằng chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi. Mỗi người chúng ta đều có một Galilêa của riêng mình. Chúng ta cần khởi đầu lại cuộc lữ hành, nhắc nhở mình rằng chúng ta được sinh ra và được tái sinh nhờ vào lời mời gọi được ban ra một cách nhưng không cho chúng ta từ tình yêu. Đây luôn luôn là điểm từ đó chúng ta có thể khởi đầu một lần nữa, một cách đặc biệt trong giai đoạn thử thách và khủng hoảng, là hãy nhớ về Galilêa của chúng ta.
Nhưng còn nữa. Galilêa là miền đất xa xôi nhất các môn đệ ở đó: từ Giêrusalem. Và không chỉ bằng một cách địa lý. Galilêa cũng là một nơi xa nhất từ sự thánh thiện của Thành Thánh. Nó là khu vực ở đó nhiều sắc dân chung sống: là “Galilêa của Dân Ngoại” (Mt 4:15). Chúa Giêsu đã sai họ về đó và mời gọi họ bắt đầu khởi điểm từ đó. Điều này nói gì với chúng ta? Thông điệp hy vọng này không chỉ để giam giữ ở những nơi thánh của chúng ta, nhưng còn được mang đến cho mọi người. Đối với mọi người đang cần niềm an ủi, và nếu chúng ta, những người đã chạm đến “Lời của sự sống” (1 Jn 1:1) không trao ban điều ấy, thì liệu sẽ là ai? Đẹp thay biết bao các Kitô hữu những người đem lại sự an ủi, những người mang vác những gánh nặng của người khác, và đem lại cho họ sự khích lệ: những sứ giả sự sống trong thời điểm của chết chóc! Ngay tại Galilêa, ngay tại khu vực của gia đình nhân loại tới nơi chúng ta thuộc về và nó là một phần của chúng ta – vì chúng ta tất cả là anh chị em – ước gì chúng ta mang bài ca sự sống! Chúng ta hãy làm im những tiếng khóc than của sự chết, không còn chiến tranh! Ước gì chúng ta ngưng những sản phẩm và buôn bán vũ khí, vì chúng ta cần cơm bánh, không cần súng đạn. Chớ gì việc phá thai và giết chết những mạng sống người vô tội chấm dứt. Ước gì trái tim của những ai đã mở rộng đủ cho việc lấp đầy bàn tay trống rỗng những ai không có những nhu cầu tối thiểu.
Những phụ nữ ấy, cuối cùng, “ôm” lấy chân Chúa Giêsu (Mt 28:9), những bàn chân đã dong duổi rất xa để gặp chúng ta, đến độ đi vào và đi ra từ nấm mồ. Những người phụ nữ đã ôm những bàn chân đã đạp lên sự chết và đã mở lối hy vọng. Ngày hôm nay, như những khách hành hương đi tìm hy vọng, chúng ta bám vào Người, Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúng ta quay lưng lại với sự chết và mở trái tim cho Chúa, vì Chúa là Sự Sống.
Nguồn: vaticant.net, Homilies
Views: 0