Uncategorized

Lại chuyện quốc tịch Việt Nam!

Phóng viên Cát Linh của Đài Á châu Tự do (RFA) cho biết ngày 3.6.2017, Giáo sư Phạm Minh Hoàng có kể lại sự việc xảy ra cho ông cách đó 2 ngày như sau:

Phóng viên Cát Linh của Đài Á châu Tự do (RFA) cho biết ngày 3.6.2017, Giáo sư Phạm Minh Hoàng có kể lại sự việc xảy ra cho ông cách đó 2 ngày như sau:

“Ông Tổng lãnh sự Pháp có mời tôi lên để trao đổi một số chuyện, thì ông nói là có một tin rất xấu cho tôi, là nhà nước Việt Nam, qua trung gian là Chủ tịch nước Trần Đại Quang vào ngày 17 tháng 5 đã ký một văn bản tước quốc tịch của tôi, và chuyện này chắc chắn sẽ dẫn đến việc trục xuất tôi ra khỏi Việt Nam vì tôi có song tịch Pháp – Việt.”

Đây là một vấn đề cần được làm sáng tỏ vì nhiều trường hợp tương tự sẽ còn xảy ra đối với nhiều người Việt khác. Nhưng đây là vấn đề về luật lý, không thể nói theo cảm tính. Muốn làm sáng tỏ, không thể chỉ căn cứ vào Luật Quốc Tịch Việt Nam mà còn phải căn cứ vào “Công ước Hague về Một số Vấn đề liên quan đến Sự Tranh chấp về Luật Quốc tịch”  được ban hành ngày 12.4.1930, “Công ước Liên hiệp quốc về việc giảm bớt tình trạng vô quốc tịch” ngày 30.8.1961, các học lý, án lệ và tục lệ quốc tế về quốc tịch…, chứ không thể cãi chày cãi cối. Vấn đề này đã được chúng tôi bàn nhiều lần kể từ khi nhà cầm quyền Việt Nam ban hành luật quốc tịch đầu tiên ngày 28.6.1988. Tuy nhiên, để độc giả có thể thấy rõ vấn đề hơn, trước hết chúng tôi xin trình bày tóm lực về trường hợp của ông Phạm Minh Hoàng.

VÀI NÉT VỀ VỤ ÁN PHẠM MINH HOÀNG

Phạm Minh Hoàng sinh ngày 8.8.1955 tại Vũng Tàu, con của một viên chức cao cấp thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH. Năm 1973 ông được đi du Pháp, tốt nghiệp Cao học ngành Cơ học ứng dụng. Năm 2000 ông trở về Việt Nam, làm giảng viên hợp đồng dạy môn Toán học ứng dụng tại Trường Đại học Bách khoa Sài gòn. Trong thời gia này, với bút hiệu Phan Kiến Quốc, ông viết nhiều bài đăng trên các websites, kêu gọi chính quyền thực thi dân chủ và phản đối việc giao cho nhà thầu Trung Quốc khai thác mỏ Bauxite ở Tây Nguyên.

Ngày 13.8.2010, Phạm Minh Hoàng bị Công An bắt điều tra về các họat động chống chính quyền. Ngày 9.9.2010 Đảng Việt Tân ra thông cáo công bố 4 đảng viên Việt Tân đã bị Công An bắt giữ trong thời gian qua, bao gồm ông Phạm Minh Hoàng, Mục sư Dương Kim Khải, bà Trần Thị Thúy và ông Nguyễn Thành Tâm.

Nhiều người cho rằng đây là một hành động tai hại của Việt Tân, biến các cộng sự viên thành vật tế thần để “biểu dương khí thế” (giống IS đang làm hiện nay), không khác gì “thưa ông tôi ở bụi này”, làm cho các người liên hệ không còn đường chối cãi. Đảng Việt Tân giải thích rằng đây là một cách “ngăn chận những thủ đoạn ngược đãi” những người này và gia đình họ, nhưng không ai chấp nhận.

Ngày 29.9.2010 Bộ Công an đã tổ chức họp báo tuyên bố quyết định khởi tố, bắt tạm gian Phạm Minh Hoàng, về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền.

Ngày 10.8.2011 Tòa án Sai gòn đã đưa Phạm Minh Hoàng ra xét xử sơ thẩm về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo khoản 2 Điều 79 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng nói năm 1996, Phạm Minh Hoàng được Nguyễn Ngọc Đức là “Trung ương ủy viên” của tổ chức Việt Tân ở Paris móc nối và đã gia nhập tổ chức này năm 1998. Năm 2000, Phạm Minh Hoàng về nước làm giảng viên Đại học Bách khoa Sài gòn.

Tháng 11/2009, Phạm Minh Hoàng đã lôi kéo Lê Thị Kiều Oanh và Nguyễn Thanh Hùng đi Malaysia tham dự khóa học do Việt Tân tổ chức. Khóa học này do Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Quốc Quân và Nguyễn Thị Thanh Vân ở Pháp phụ trách. Từ tháng 1 đến tháng 5/2010, Phạm Minh Hoàng cùng ba thành viên trong tổ chức là Phạm Duy Khánh, Jolie Trang Huỳnh và Huỳnh Châu, tổ chức hai khóa học, tổng cộng 4 lớp học về kỹ thuật tuyên truyền cho tổ chức Việt Tân tại Việt Nam… Ngoài ra, Phạm Minh Hoàng còn viết nhiều bài trong đó có 33 bài có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước rồi gửi cho Việt Tân đăng và phát tán trên các mạng internet nhằm tuyên truyền, lôi kéo, kích động, tập hợp lực lượng hoạt động nhằm lật đổ chế độ hiện tại.

Bào chữa cho bị cáo Hoàng, luật sư Trần Vũ Hải cho rằng Hoàng về nước và tổ chức khóa học “kỹ năng phần mềm” là tự thân, không phải do Việt Tân chỉ đạo; các bài viết của Hoàng cũng không phải “nhận lệnh” từ tổ chức này và đã bị lợi dụng để phát tán lên mạng.  Nhưng Tòa tuyên phạt Phạm Minh Hoàng 3 năm tù và 3 năm quản chế tại địa phương.

Các đối tượng khác trong vụ án này như Nguyễn Thị Thanh Vân, Nguyễn Ngọc Đức, Phạm Duy Khánh do đang sống ở nước ngoài, khi nào bắt được sẽ xét xử sau.

Ông Phạm Minh Hoàng đã kháng cáo. Ngày 29.11.2011 Tòa án Nhân dân Tối cao tại Thành phố Sài Gòn đã tuyên bố chấp nhận kháng cáo của Hoàng, giảm án cho Hoàng từ 3 năm tù xuống còn 17 tháng.

Ngày 13.1.2012, ông Hoàng đã được trả tự do. Tháng 3/2016, ông Hoàng lại bị Công an câu lưu tại Sài Gòn do tổ chức lớp học về lịch sử các cuộc đấu tranh ở Việt Nam và về Hiến pháp.

VẤN ĐỀ QUỐC TỊCH CỦA PHẠM MINH HOÀNG

Ngày 1.6.2017, Tổng lãnh sự sứ quán Pháp tại Sài Gòn đã thông báo cho ông Phạm Minh Hoàng biết Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký quyết định số 832/QĐ-CTN ngày 17.5.2017 tước quốc tịch Việt Nam của ông. Tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 15.6.2017, phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng tuyên bố ông Hoàng đã phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam nên việc tước quốc tịch Việt Nam đối với ông ta là đúng pháp luật.

Hôm 15.6.2017, ông Hoàng gửi đơn lên Bộ Tư Pháp khiếu nại về quyết định ngày 17.5.2017 cùa Chủ tịch Trần Đại Quang, viện lý do“không có cơ sở pháp luật.” Theo ông, Điều 31 Luật Quốc tịch Việt nam ấn định việc tước quốc tịch chỉ áp dụng cho hai đối tượng: “Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài (khoản 1); và người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo Điều 19 (Khoản 2), tức chỉ công dân nước ngoài và người không có quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam (Điều 19)”. Ông không thuộc hai loại đối tượng đó, nên việc tước quốc tịch của ông là “không có cơ sở pháp luật, vi phạm Điều 2 của Luật Quốc tịch Việt nam về quyền đối với quốc tịch công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch Việt Nam.”

Hôm 3.6.2017 ông Phạm Minh Hoàng đã gởi đến Tòa Đại Sứ Pháp ở Hà Nội tuyên bố thực thi quyền từ bỏ quốc tịch Pháp chiếu theo điều 23 Bộ luật Dân sự Pháp. Ông viết: “Vì lý do trên, tôi xin Ông vui lòng xem như tôi không còn quốc tịch Pháp và chỉ giữ lại quốc tịch Việt Nam.”

Trước khi bàn về việc tước bỏ quốc tịch Việt Nam của ông Phạm Minh Hoàng, chúng tôi xin nói qua về các nguyên tắc căn bản của luật quốc tể về quốc tịch và luật Quốc tịch Việt Nam.

CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUỐC TỊCH

“Công ước Hague về Một số Vấn đề liên quan đến sự Tranh chấp về Luật Quốc tịch” (Convention on Certain Questions relating to the Conflict of Nationality Laws) ngày 12.4.1930 đã đưa ra một số nguyên tắc tổng quát về luật quốc tịch, có thể tóm lược như sau:

1.- Mọi người đều có quyền có quốc tịch và quyền thay đổi quốc tịch, không ai có quyền tước bỏ hai quyền đó.
2.- Mỗi người có thể có hai hay nhiều quốc tịch và một quốc gia không được dùng quyền bảo vệ ngoại giao để ngăn cản điều này.
3.- Một người thụ đắc hai quốc tịch có thể xin từ bỏ một quốc tịch mà mình không muốn.
4.- Mặc dầu mỗi người có quyền có nhiều quốc tịch, nhưng quốc gia đệ tam (tức quốc gia mà đương sự không có liên hệ về quốc tịch) chỉ công nhận một quốc tịch duy nhất mà thôi, đó là quốc tịch của quốc gia nơi đương sự có trú sở chính và thường xuyên hay quốc tịch của quốc gia mà đương sự trong thực tế có quan hệ chặt chẽ nhất.
5.- Một người có hai quốc tịch, khi đã từ bỏ một quốc tịch hợp lệ, quốc tịch còn lại phải được quốc gia mà đương sự muốn có quốc tịch nhìn nhận, cho dù đương sự đang có trú sở chính và thường xuyên tại quốc gia mà đương sự đã từ bỏ quốc tịch.

"Công ước Liên hiệp quốc ngày 30.8.1961 về việc giảm bớt tình trạng vô quốc tịch" (Convention on the Reduction of Statelessness) dự liệu rằng các quốc gia kết ước sẽ ban quốc tịch của nước mình cho những người sinh ra trên lãnh thổ của nước đó nhưng vì một lý do nào đó bị coi là vô quốc tịch.

KHÁI QUÁT VỀ LUẬT QUỐC TỊCH VN

Từ 30.4.1975 đến nay, khi số người Việt bỏ nước ra đi ngày càng đông, nhà cầm quyền đã ban hành và sửa đổi luật quốc tịch đến 4 lần, đầu tiên là luật quốc tịch ngày 28.6.1988, rồi đến luật quốc tịch ngày 20.5.1998 và sau đó là luật quốc tịch ngày 13.11.2008 được bổ sung bởi luật ngày 24.6.2013. Hai luật đầu không chấp nhận chế độ song tịch hay đa tịch, coi tất cả những người có quốc tịch Việt Nam dù đã thủ đắc hay xin nhập bất cứ quốc tịch nào trên thế giới vẫn được coi là người Việt Nam. Những ai muốn bỏ quốc tịch Việt Nam phải làm đơn xin thôi quốc tịch Việt Nam.  Mục tiêu của sự quy định này là giành quyền quản lý các hoạt động của tất cả những người Việt đang định cư ở nước ngoài, nhất là các hoạt động chính trị.

Từ năm 1993 đến nay, chúng tôi đã dựa theo các nguyên tắc của luật quốc tế, tục lệ quốc tế, án lệ quốc tế và luật đối chiếu về quốc tịch, viết rất nhiều bài nhận xét về những phi lý và rắc rối của luật quốc tịch Việt Nam. Đến năm 2008, chính quyền mới ban hành Luật số 24/2008/QH12 ngày 13.11.2008 công nhận chế độ song tịch nhưng lại tạo ra một rắc rối khác, đó là buộc phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam trong thời hạn 5 năm kể từ ngày luật này có hiệu lực, nếu không sẽ mất quốc tịch Việt Nam. Sự quy định này sẽ biến một số người Việt thành vô quốc tịch nều đến ngày mãn hạn đăng ký họ chưa nhập một quốc tịch nào khác. Như vậy sẽ vi phạm Công ước Hague ngày 12.4.1930 về việc ngăn chận tình trạng vô quốc tịch. Chúng tôi đã cảnh cáo rất mạnh mẽ về khuyết điểm lớn này. Ngày 24.6.2013 chính quyền Việt Nam đã ban hành luật số 56/2014/QH13 bỏ quy định về thời hạn phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam (trước đây là đến ngày 01.7.2014) và bỏ quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài mặc nhiên mất quốc tịch nếu không đăng ký giữ quốc tịch. Đây là một sự sửa đổi phù hợp với luật quốc tế.

VIỆC TƯỚC QUỐC TỊCH VN CỦA ÔNG HOÀNG

Điều 31 của Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 13.11.2008 có quy định: Căn cứ tước quốc tịch Việt Nam:

1. Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 của Luật này dù cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.

Điều luật này đã đặt ra những quy định rắc rối. Trên nguyên tắc chỉ có thể tước bỏ một quốc tịch đối với những người song tịch mà thôi.Đối với những người chỉ có một quốc tịch Việt Nam duy nhất, việc tước bỏ quốc tịch của họ, cho dù họ đã phạm bất cứ tội phạm nào, sẽ bị coi là vi phạm Công ước Hague ngày 12.4.1930.

Ông Phạm Minh Hoàng là công dân Việt Nam đã từng cư trú ở Pháp và nhập quốc tịch Pháp. Năm 2000 ông trở về Việt Nam và theo luật số 56/2014/QH13 ngày 24.6.2014, ông vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam. Như vậy ông có hai quốc tịch, vừa Việt vừa Pháp. Khi xuất ngoại, nếu ông dùng hộ chiếu của Pháp, ông được coi là người Pháp và nếu ông dùng hộ chiếu Việt Nam ông được coi là người Việt Nam. Tuy giữ song tịch có lợi, nhưng khi bị truy tố và trừng phạt về các tội vi phạm an ninh quốc gia, nhà cầm quyền sẽ dựa vào điều 31 của luật Quốc tịch VN để tước quốc tịch Việt Nam của ông. Lúc đó ông còn có quốc tịch Pháp nên không vi phạm vi Công ước Hague ngày 12.4.1930.

Ông Hoàng thấy rõ điều đó nên hôm 3.6.2017 ông đã làm đơn xin bỏ quốc tịch Pháp, nhưng đã quá muộn vì mọi chuyện đã xong rồi. Chúng tôi tin chắc chính phủ Pháp cũng sẽ không cho ông từ bỏ quốc tịch Pháp vì nếu làm như vậy là vi phạm Công ước Hague ngày 12.4.1930, biến ông Hoàng thành vô quốc tịch.

Bây giờ ngồi tranh luận với Bộ Tư Pháp về áp dụng điều 31 của Luật Quốc tịch Việt Nam, ai sẽ xét xử cho ông? Như ý kiến của nhiều người, Việt Nam không còn là đất dụng võ của ông nữa, cách tốt nhất là ông nên bỏ quốc tịch Việt Nam và quay về Pháp, vì rất nhiều người đang muốn được như ông mà không được. Ở Pháp, ông sẽ có nhiều phương tiện để giúp đất nước thoát khỏi nghèo đói và áp bức nếu ông thực lòng muốn làm và biết cách làm điều đó.

Ngày 22.6.2017
Lữ Giang

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.