Là một tín hữu Công Giáo, hẳn rằng, không ai trong chúng ta lại không biết đến lời cầu nguyện được mang tên là kinh Lạy Cha. Thế nhưng, nếu được hỏi, kinh Lạy Cha tác giả là ai, có phần chắc, không ít người trong chúng ta không biết đến.
Ai là tác giả kinh Lạy Cha? Thưa, chính là Chúa Giêsu. Điều này đã được ghi lại trong tin mừng thánh Luca.
Vâng, tin mừng thánh Luca kể lại rằng: “Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện và khi Người cầu nguyện xong thì có một người trong nhóm môn đệ…” đến bên Đức Giêsu.
Người này là ai và tại sao lại đến một mình? Phải chăng là để “thỏ thẻ” riêng tư với Đức Giêsu xin đặc ân này, đặc ân kia, như anh em nhà Dêbêđê là Giacôbê và Gioan có lần đến bên Ngài xin được ngồi bên tả, bên hữu Thầy, khi Thầy được vinh quang?
Không thấy thánh sử Luca nói đến tên. Còn chuyện “xin” thì đúng là có. Thế nhưng, điều anh ta xin, không phải xin một điều gì đó cho cá nhân anh ta, mà là xin cho “chúng con”, xin cho tất cả những người bạn đồng môn của mình.
Anh ta xin gì! Thưa, đến bên Đức Giêsu, anh ta nói: “Thưa Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông”.
Xin-Thầy-dạy-cầu-nguyện-ư! Ô hay! Chẳng lẽ trước kia các Rabbi Do Thái không dạy các ông cầu nguyện sao!
Thưa không phải, hầu hết các tín hữu Do Thái đều biết cầu nguyện. Theo truyền thống, họ cầu nguyện ba lần mỗi ngày và bốn lần trong ngày lễ Sabát hoặc các ngày lễ quan trọng khác. Ngoài các buổi cầu nguyện chung, người Do Thái còn cầu nguyện riêng và đọc kinh tạ ơn cho những sinh hoạt khác, trong ngày.
Thế thì, vì sao người môn đệ đó lại xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện? Xin thưa, Do Thái giáo có nhiều hệ phái khác nhau và tùy theo mỗi hệ phái, cách thức cầu nguyện cũng khác nhau. Các khác biệt có thể kể đến như: “kinh đọc, mức độ thường xuyên của các buổi cầu nguyện, số lượng kinh cầu trong các buổi phụng vụ, cách sử dụng nhạc cụ và thánh ca, các lời kinh cầu theo ngôn ngữ tế lễ truyền thống hoặc tiếng địa phương” (nguồn: internet).
Mười hai môn đệ là một tập hợp của nhiều vùng miền khác nhau, rất có thể, giữa các ông, với sự bảo thủ theo hệ phái, đã không có một sự thống nhất trong việc cầu nguyện.
Nay, sau nhiều lần chứng kiến hình ảnh Thầy-của-mình cầu nguyện với một tâm hồn ngây ngất hướng lòng lên Chúa Cha,vâng, chắc hẳn hình ảnh linh thiêng đó đã in đậm vào tâm trí các ông với những câu hỏi “vì sao”?
Vì sao! Vì sao mỗi lần Thầy Giêsu cầu nguyện, trời và đất như có sự tâm giao? Vì sao chỉ một lời Thầy Giêsu cầu nguyện “thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người…” (Lc 3, 22).
Vì sao cứ hỏi vì sao! Vì sao cứ hỏi vì sao trên trời, hay sao!
Vâng, có thể đó là lý do khiến các ông khao khát được chính ông Thầy của mình, chứ không phải “ông Gioan tu rừng”, dạy cho các ông cách cầu nguyện.
Đáp lại lòng khao khát của các môn đệ, Đức Giêsu đã dạy rằng: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con,và xin đừng để chúng con xa chước cám dỗ”.
**
Có gì khác biệt giữa bài cầu nguyện mà Đức Giêsu đã dạy các môn đệ, (và hôm nay là cho chúng ta), với những bài cầu nguyện theo truyền thống đạo Do Thái?
Thưa có, khác biệt thứ nhất và quan trọng nhất, đó là, qua bài cầu nguyện, Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết rằng, Thiên Chúa không phải là một “ông thần” xa lạ và ngăn cách, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi với con người, một Thiên Chúa là “Cha”, một người Cha không còn bị ngăn cách bởi “các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe”, nhưng là một người Cha sẵn sàng ban cho những ai đến “cầu xin”, sẵn sàng tiếp đón những ai đến “tìm” và sẵn sàng tiếp nhận những ai đến “gõ cửa”.
Vâng, thật rõ ràng khi hôm đó Ngài đã nói về một Thiên Chúa Cha đầy lòng thương xót, rằng: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy. cứ gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”.
Và, như một cách nhấn mạnh về thông điệp này, Đức Giêsu đã làm một so sánh rất thực tế, rằng: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Khác biệt thứ hai cũng không kém phần quan trọng, đó là, qua bài cầu nguyện, Đức Giêsu đã “nâng cấp tình người” lên một bậc. Nếu luật xưa đã dạy “không báo oán, không cưu thù” thì nay, qua bài cầu nguyện, Đức Giêsu dạy rằng, chẳng những không báo oán ,không cưu thù mà còn phải “tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”.
Có thể kết luận rằng, bài cầu nguyện Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ khi xưa, chính là một thông điệp, thông điệp về tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.
***
“Lạy Cha”. Vâng, Đức Giêsu,qua Giáo Hội, Ngài vẫn tiếp tục dạy chúng ta lời kinh nguyện mẫu mực này.
Sẽ không thể là một người Kitô hữu đúng nghĩa, nếu một ai đó trong chúng ta không biết, không thuộc bài kinh cầu nguyện này.
Tại sao? Xin thưa, bởi vì, chính trong lời kinh này nhắc nhở chúng ta nhớ đến điều răn quan trọng nhất của người Kitô hữu, đó là “mến Chúa và yêu người”.
Thật vậy, khi đọc những lời cầu nguyện đầu của bài kinh này, một cách nào đó, nhắc nhở chúng ta hãy đặt Thiên Chúa trên hết tất cả những danh dưới gầm trời này. Và đó cũng chính là một lời mời gọi chúng ta “yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” của ta.
Còn lời những lời cầu nguyện tiếp theo thì sao? Thưa, những lời kinh nguyện này mời gọi chúng ta “yêu người”, một cách thức yêu người rất nhân bản.
Thật vậy, ta không thể nói tôi “yêu người” khi ta không “tha lỗi” vô điều kiện cho những ai “mắc lỗi” với chúng ta.
Khó đấy! nhưng đó là một lời cầu nguyện, một lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su truyền dạy, và chúng ta đọc mỗi ngày.
Về điểm này, ĐTC Phanxico, trong bài giảng lễ sáng ngày thứ năm 16.06.2016, tại nguyện đường Santa Marta, có lời chia sẻ, rằng: “Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta tha cho những ai lỗi phạm với chúng ta như Cha tha cho chúng ta, nên đây là lời kinh đem đến ý thức anh chị em với nhau, ý thức chúng ta là một gia đình. Thay vì hành xử như Cain thù ghét em trai mình, điều quan trọng là chúng ta phải biết tha thứ, quên đi những lỗi phạm với chúng ta, hãy có thái độ lành mạnh biết nói rằng ‘thôi quên đi’ và đừng tích tụ những cảm giác hiềm khích, phẫn uất hay muốn báo thù”.
Và, ngài nói tiếp: “khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có thể cảm nhận Chúa đang nhìn mình và lời kinh này phải là đá tảng cho đời sống cầu nguyện của chúng ta”. (nguồn: INTERNET)
Thế nên, mỗi khi đọc bài kinh cầu nguyện này, đừng đọc như một “con vẹt”, như là để “trả bài” trước mặt Thiên Chúa. Đọc như thế, có thể nói rằng, chúng ta đang biến mình thành “cái máy cassette tụng kinh”, đọc như thế có khác nào “lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời”.
Vâng, Đức Giêsu nói: “Đừng bắt chước họ”. (Mt 6, 8).
Chúng ta đã được dạy rằng, khi đọc những bài kinh nguyện mẫu, hãy “miệng đọc lòng suy” và đừng quên lời thánh Phaolô dặn dò rằng, hãy đem tất cả tâm tình của một người con trải-lòng-ra “cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều (chúng ta) thỉnh nguyện” (Pl 4, 6).
Một khi chúng ta đọc kinh nguyện trong một tâm tình như thế, hãy tin, không có lý do gì Cha-chúng-ta-là-Đấng-ở-trên-trời, lại không nhậm lời, và như lời Đức Giêsu đã nói: “Lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Có thể kết luận rằng, khi đọc Kinh Lạy Cha dù là ở “tư thế đứng, có lúc dang tay ra, có lúc ngước mắt lên trời, có lúc nắm tay người bên cạnh… bất luận tư thế hay cử chỉ của chúng ta là thế nào trong lúc đọc kinh Lạy Cha, anh em phải nhận ra mình được diễm phúc biết bao khi xưng hô với Thiên Chúa, theo cách của Chúa Giêsu (đã xưng hô trong vườn cây dầu) khi gọi Thiên Chúa là “Abba, Lạy Cha”. (trích lời giảng của Lm Charles E. Miller)
“ Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”. Vâng, hãy đọc với tất cả tâm tình “miệng đọc lòng suy”. Nếu không đọc với tâm tình như thế, thì, những lời kinh nguyện của chúng ta, dù được đọc hàng triệu lần, thì cũng chỉ như: “Dã tràng se cát biển đông. Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.
Nói, theo cách nói nhà đạo, “chẳng sinh ơn ích gì”.
Petrus.tran
Views: 0