Nếu tính tự trọng, tự tin, hay tự lập có sức mạnh rất mãnh liệt trong những quyết định và lối sống của một người, thì khả năng đối kháng của nó trước những va chạm là động lực chính yếu có sức tàn phá, hoặc hủy diệt ghê gớm về mặt tâm lý. Nó có thể tạo nên những bất hạnh lớn lao cho nhiều gia đình. Ứng dụng những phân tích đó vào đời sống hôn nhân, chính là hành động chuyển hướng sức mạnh của nó thành những yếu tố hữu ích mang lại hạnh phúc, thay vì để nó hủy diệt hạnh phúc mà ta đang có.
Ðể xây dựng hạnh phúc hôn nhân, căn cứ vào những phân tích và khám phá về tâm lý như đã được đề cập đến ở những chương trên, chính là thái độ của người chồng hay người vợ tự nhận ra những tư tưởng kỳ quặc hoặc sự tin tưởng sai lầm của mình để sửa sai. Vì những ý nghĩ và sự tin tưởng đó là căn nguyên sinh ra trăm thứ hiểu lầm, lủng củng cho nhiều cặp vợ chồng. Chính nó đã hướng dẫn ý chí, hành động và ngôn ngữ của họ thành những chống đối hoặc tự cô lập mình với người chung quanh. Do đó, người chồng hoặc người vợ chỉ là những nạn nhân đáng thương hại. Trong những trường hợp như thế, dù là người chủ động hay nạn nhân, tất cả đều sống trong đau khổ và bất hạnh.
Khi trình bày về phương pháp Hữu Lý Tình Cảm Trị Liệu, Albert Ellis đã phân tích tâm lý con người và cô đọng thành thuyết ABC. Nó được giải thích đơn sơ như sau:
A (mẫu tự đầu của chữ activating agent, activity, action): Có nghĩa là những tác động của một người. Tác động ở đây bao gồm một cử chỉ, một cái nhìn, một khoé mắt, một lời nói, một hành động, hoặc bất cứ biến cố nào trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến con người từ bên ngoài hay bên trong cuộc sống. Nó cũng nhằm diễn tả những hành động của một người đối với những người khác, mà họ nghe được, thấy được, và cảm được.
B (mẫu tự đầu của chữ belief system): Có nghĩa là hệ thống tin tưởng, cách thức suy tư, lý luận, ý kiến, hay sự xác tín của mỗi người. Ðây là sự tin tưởng của tri thức và hiểu biết chứ không hẳn phải là niềm tin tôn giáo, mặc dù niềm tin ở tôn giáo cũng có tác dụng mạnh mẽ trong cuộc sống của con người.
Hệ thống tin tưởng ấy có thể là đúng, hợp tình, hợp lý. Ngược lại, hệ thống tin tưởng ấy có thể là sai, vô lý, hay điên rồ, cuồng tín. Thí dụ hành động phá thai, ly dị hiện nay đang tạo nên những cuộc tranh chấp đôi khi rất gay gắt giữa những người tin rằng hành động phá thai và ly dị là đúng, hoặc ngược lại, hành động phá thai và ly dị là sai.
Ðối với những người ủng hộ, thì việc người phụ nữ dùng quyền tự do của mình để quyết định nên phá hay không nên phá thai là một việc làm chính đáng, và hợp pháp. Ngược lại, đối với những người chống đối, thì phá thai là một việc làm giết người, vô lương tâm, và tội lỗi.
Một cách tương tự, hành động ly dị cũng đang được nhiều người ủng hộ, hoặc chống đối.
C (mẫu tự đầu của chữ consequence): Có nghĩa là hậu quả hay kết quả, thành quả. Tùy theo mức độ và sắc thái tin tưởng sẽ dẫn đến những ý nghĩ hành động. Những quyết tâm này lại được phong phú hoá nhờ tự do và phán đoán riêng của từng người. Từ đó, tuy cùng một vấn đền, một sự việc nhưng mỗi người có một phán đoán và cái nhìn khác nhau.
Tóm lại, bất cứ hành động nào của một cá nhân, một đoàn thể, hay một dân tộc cũng đều được lọc qua hệ thống tin tưởng, rồi mới phát sinh ra những kết quả tương ứng bằng hành động.
Với cùng một tác động, nhưng tùy hệ thống tin tưởng của người tiếp nhận, hợp lý hay vô lý, kết quả sẽ thuận lợi hay bất thuận lợi cho chính họ và người chung quanh. Thí dụ, cũng một cử chỉ nháy mắt, giữa hai người bạn thân hoặc giữa hai vợ chồng thường được coi là một tín hiệu tốt, đồng ý, hay khen thưởng. Nhưng những cái nháy mắt giữa một người đàn ông và người đàn bà chưa quen biết xẩy ra tại một vũ trường, hay trong một buổi dạ tiệc lại được quan niệm là những cái liếc mắt đưa tình hay tán tỉnh.
Những phân tích này nhắm thẳng vào người có vấn đề và những nạn nhân liên hệ để tìm hiểu tận căn gốc những rắc rối trước khi nó bùng nổ, phá vỡ hạnh phúc hôn nhân. Trong nhiều trường hợp, trước quyết định ly dị không phải chỉ người vợ mà ngay cả người chồng cũng cảm thấy run rẩy, sợ hãi và hoảng hốt, mặc dù trước đó họ cãi vã, chửi bới, và đánh đập nhau đôi khi hung bạo, tàn nhẫn. Nhiều người còn tỏ thái độ hân hoan và vui mừng ngóng chờ để được ly dị.
Nhưng sau khi xé tờ giấy hôn thú xong, nhiều người đã cảm được cái sai lầm của hành động ly dị. Họ bắt đầu nhìn lại quá khứ và chợt khám phá ra rằng những sai trái, những thất trung, thất tín của mình hay của người phối ngẫu đã đến từ hậu quả do những phán đoán sai lầm, thiếu hiểu biết và thông cảm. Thái độ miễn cưỡng chấp nhận này, theo những nghiên cứu về đời sống tình cảm và tâm lý của những người độc thân sau khi đã ly dị cho biết, đời sống họ – nhất là về phía đàn ông – thường gặp nhiều bất ổn về mặt tâm lý. Có lẽ vì vậy mà ngay từ đầu, Thượng Ðế đã phán: “Ðàn ông sống một mình không tốt” (Gen 2:18).
Khám phá những tiềm ẩn của hành động, là để không kết án hành động một cách vội vàng, thiếu chính xác, và thiếu thông cảm. Trong nhiều trường hợp, chủ ý tốt của một người bị hiểu lầm, hoặc xuyên tạc, và vì thế tự ái bị va chạm, kéo theo phản ứng của hệ thống phòng vệ làm cho họ trở thành yên trí, đôi khi cố chấp. Vì thế, nếu vô tình sự kết án của ta va chạm tới hệ thống tin tưởng và hành động của người đó, hậu quả sẽ trở thành trầm trọng, mặc dù những việc làm bên ngoài chỉ là những chuyện nhỏ nhoi, không đáng kể.
Tuy nhiên, ta cũng không nên phủ nhận trách nhiệm và những ràng buộc có tính cách luân lý, đạo đức giữa những tương quan trong đời sống hôn nhân. Ðối với những người chủ động trong các cuộc chia rẽ hôn nhân, nhận thức chung của mọi người vẫn cho rằng đó là một việc làm thiếu lương tâm và đạo đức. Chính người đó đôi lúc có lẽ cũng cảm thấy áy náy và hối hận! Sự cắn rứt của lương tâm có thể phát sinh thành những hậu quả đưa đến tâm bệnh, hoặc ít nhất người nhận thấy mình có tội, luôn luôn phải sống trong lo âu, trốn tránh, hoặc giả tạo.
Ðời sống hôn nhân thường ngày vẫn thấy có những câu chuyện xẩy ra, thí dụ một người đàn ông bất chấp dư luận, sẵn sàng từ bỏ gia tài, tiền bạc, danh vọng, và cả vợ con để đi theo một người đàn bà mà dưới con mắt khách quan của nhiều người, người đó thật sự thua kém người vợ cũ của ông ta.
Người ta cũng không dễ dàng giải thích một cách thỏa đáng lý do về hiện tượng một số phụ nữ mặc dù đã có con, có cháu nhưng vẫn lén lút, vụng trộm ái ân, tình cảm với những đàn ông khác. Một số trường hợp còn nhẫn tâm bỏ con bị đau ở nhà để đi chơi với tình nhân, trước khi phũ phàng bỏ chồng, bỏ con đi theo tiếng gọi của ái tình mới.
Tại sao nhiều thiếu nữ con nhà đàng hoàng, tử tế, có tất cả những yếu tố thành công và hạnh phúc, lại sẵn sàng đi theo một người tội phạm đang bị lùng bắt, chấp nhận mọi đau khổ kể cả sự hất hủi và hành hung của người đó? Tại sao nhiều thanh thiếu niên bỏ nhà trốn học, sống gian díu với những thành phần băng đảng hoặc nghiện hút? Có thể là do tình yêu đã thôi thúc họ làm những chuyện mà người bình tĩnh, ngoài cuộc cho là mù quáng như thế? Hay cũng có thể tin rằng từ con người nào đó, có khả năng chinh phục và thu hút niềm tin của họ?
Nhưng dù dưới bất cứ lối giải thích nào, ta cũng khó lòng loại bỏ ảnh hưởng của hệ thống tin tưởng cố định của những nạn nhân đó vào những người, hoặc những sự việc mà họ đang tin tưởng. Sự tin tưởng đó mạnh mẽ đến độ lấn át cả những gì mà người ngoài cuộc tin là không thể thực hiện được.
Nếu niềm tin ảnh hưởng cả một tập thể, một dân tộc thì sức phản kháng mãnh liệt của nó thật là ngoài sức tưởng tượng của con người. Ði vào với thực tế của dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm qua, niềm tin vào những giá trị đạo lý gia đình mà ta gọi là Tam Cương, Ngũ Thường đã gò ép và đè nén người đàn bà trong một cuộc sống nhiều khi hết sức bất công và tồi tệ. Với cái nhìn mới mẻ của con người thời đại, ta không thể hiểu được tại sao những người đàn bà con gái đó lại có thể sống và làm được những hành động bình thường của nghĩa vụ làm vợ và làm mẹ. Nguyên một hành động như thế, cũng đủ để ca tụng họ là những nữ nhi anh hùng rồi!
Ngày nay, hình ảnh những bà mẹ tại quê nhà cũng vẫn là những hình ảnh của con người lao nhọc và vất vả vì chồng, vì con. Ca dao Việt Nam đã diễn tả thái độ hy sinh đến quên mình của họ như sau:
“Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay”.
Hình ảnh đó, vẫn còn tìm thấy trong nhiều gia đình Việt Nam trên những miền đất tạm dung. Một hôm, một cặp vợ chồng nọ được đưa tới văn phòng tâm lý. Cả hai dưới 50 tuổi, nhưng trông già hơn một cụ già 70 tuổi. Áo quần nhem nhuốc, đầu tóc bù xù, móng chân và móng tay không cắt tỉa. Toàn thân họ phóng ra một mùi hôi nồng nực. Họ có con, nhưng những người con đó đã bỏ họ. Nguồn lợi chính của họ là sống nhờ trợ cấp xã hội, tiền vay mượn của chính phủ, và những đồng tiền thu nhặt được do bán giấy vụn hoặc ống lon. Trong hoàn cảnh như vậy, chắc chắn là họ phải thuê tạm một gian phòng rẻ tiền trong một gia đình nào đó, hay có thể họ phải ngủ trong một garage được sửa chữa để làm phòng ngủ. Trông hoàn cảnh của họ không thể không xúc động.
Ðiều gây xúc động nhất trong trường hợp này là tình thương và sự chung thủy của người vợ. Bà cho biết, người chồng bị bệnh tâm lý của bà thường xuyên đánh đập bà, đày đọa bà, và nhiều lần lên cơn còn muốn giết bà. Khi nói những điều đó, bà đã khóc! Những giọt nước mắt của bà minh chứng hoàn cảnh đau thương của bà. Nhưng bà dường như không nghĩ gì đến thân bà. Không một lời nào bà đã nói hoặc xin xỏ sự giúp đỡ cho chính bà. Chỉ thấy bà tha thiết tìm sự giúp đỡ cho chồng bà. Dường như bà cho rằng, nếu chồng bà được giúp đỡ, chính là bà đã được giúp đỡ vậy.
Hành động của bà đáng thán phục. Sự chịu đựng của bà còn đáng kính nể hơn. Một sự chịu đựng nói theo ngôn ngữ của những con người thời đại là một hành động ngu xuẩn, không cần thiết. Vì đối với những người chồng như chồng bà, làm gì có chỗ đứng trong nhiều gia đình người Âu Mỹ hiện nay. Nhưng bà là người Việt Nam. Ảnh hưởng của nền luân lý gia đình, và với con tim chân thành, nó đã đem lại cho bà sức chịu đựng phi thường.
Tư tưởng bảo thủ của một số đông đàn ông Việt Nam cho tới nay là vẫn muốn duy trì quan niệm”chồng chúa, vợ tôi” – chồng là chủ, vợ chỉ là người đầy tớ. Hoặc quan niệm cho rằng “trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một chồng” – người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, nhưng người con gái thì chỉ được lấy một chồng. Hoặc quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” – một đứa con trai có giá trị hơn 10 đứa con gái. Hoặc đề cao “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” ngụ ý bắt buộc người đàn bà con gái phải trinh tiết cho đến khi kết hôn, còn người con trai thì muốn sao cũng được.
Trong khi nhiều phụ nữ Việt Nam còn đang phân vân và chiến đấu với tư tưởng xã hội và nền luân lý của mình, thì ngược lại, tại các nước Âu Mỹ, hiện tượng xã hội ngày nay, do ảnh hưởng của niềm tin tập thể hằng ngày vẫn có hàng triệu các cặp trai gái sống chung với nhau ngoài hôn nhân. Hàng trăm, hàng ngàn, người mẹ vẫn tới các bệnh viện hoặc phòng mạch tư để phá thai. Hàng trăm, hàng ngàn cặp vợ chồng dẫn nhau tới tòa thị chính hoặc các văn phòng luật sự nộp đơn ly dị. Hàng triệu người thuộc giới đồng tính luyến ái vẫn hiên ngang sóng vai nhau bước trên các đường phố. Hàng trăm ngàn người khỏa thân trên các bãi biển tắm truồng. Tất cả những hình ảnh và lối sống này không thể chấp nhận được đối với một số người, nhưng lại được coi là thích hợp với một số người.
Ðể hóa giải những khủng hoảng về niềm tin và những ảnh hưởng khác nhau của hệ thống tư tưởng thường dẫn đưa vợ chồng đến chỗ xung đột và bất hoà, những ứng dụng thực hành theo Albert Ellis cũng mang ba chữ gồm DEF.
(Còn tiếp)
(Trích trong Bí Quyết Hạnh Phúc Của Hôn Nhân: Ứng Dụng Theo Thuyết Hữu Lý Tình Cảm của tác giả. Muốn mua sách, xin liên lạc về địa chỉ: tmduyet@sbcglobal.net)
Views: 0