Uncategorized

Về vị đại diện không thường trú Tòa Thánh tại Việt Nam

Ngày 26.06.2010, Mạng lưới vietvatican.net phổ biến ‘Thông cáo của Tòa Thánh về khóa họp thứ II của Nhóm Làm việc chung’ cho biết:

 

Ngày 26.06.2010, Mạng lưới vietvatican.net phổ biến ‘Thông cáo của Tòa Thánh về khóa họp thứ II của Nhóm Làm việc chung’ cho biết:

 

« … khóa họp thứ II của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh đã diễn ra tại Vatican từ ngày 23 đến 24-6 năm 2010. Khóa họp được 2 vị đồng chủ tọa là Đức Ông Ettore Balestrero, thứ trưởng ngoại giao Tóa Thánh, trưởng đoàn Tòa Thánh, và Ông Nguyễn Quốc Cường, thứ trưởng ngoại giao, trưởng đoàn Việt Nam.

 

…Phái đoàn Việt Nam nhắc lại đường hướng trước sau như một của chính sách Việt Nam tôn trọng tự do tôn giáo và tín ngưỡng cũng như các qui định pháp lý bảo đảm việc thực thi tự do đó. Phái đoàn Tòa Thánh đã ghi nhận giải thích đó và yêu cầu đảm bảo thêm những điều kiện để Giáo Hội tham gia hữu hiệu hơn vào sự phát triển đất nước, nhất là trong lãnh vực tinh thần, giáo dục, y tế, xã hội và từ thiện. Ngoài ra phái đoàn Tòa Thánh nhắc lại rằng, qua các giáo huấn, Giáo Hội mời gọi các tín hữu trở thành những công dân tốt và dấn thân cho công ích của nhân dân.

 

Hai phái đoàn đã ghi nhận những phát triển khả quan trong các lãnh vực của đời sống Công Giáo tại Việt Nam, đặc biệt về Năm Thánh. Ngoài ra, cả hai nhắc đến bài diễn văn của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 trong dịp các Giám Mục Việt Nam về Roma viếng mộ các Thánh Tông Đồ năm ngoái và Sứ điệp của Đức Thánh Cha gửi Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam nhân dịp Năm Thánh, và cả hai Phái đoàn đồng ý rằng các giáo huấn này của Đức Thánh Cha sẽ được dùng làm hướng đi cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam trong những năm tới đây.

 

Về quan hệ song phương, hai Phái đoàn đánh giá cao những phát triển tích cực diễn ra từ sau Khóa họp thứ I của Nhóm làm việc chung, đặc biệt là cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 và Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết hồi tháng 12 năm 2009. Hai Phái đoàn đã trao đổi sâu rộng về quan hệ ngoại giao song phương. Để đào sâu quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam, cũng như những quan hệ giữa Tòa Thánh và Giáo Hội Công Giáo địa phương, như một bước đầu, cả hai bên đã thỏa thuận về việc Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm một vị Đại Diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. »

 

Ðể rõ ràng hơn, chúng tôi xin trích bài ‘Đức Giáo Hoàng sẽ bổ nhiệm đại diện không thường trú tiên phong tại Việt Nam.’ đăng trên VietCatholic News ngày 26.06.2010, tác giả Dominic David Trần cho biết thêm: « Linh Mục Federico Lombardi SJ, Phát Ngôn Viên Tòa Thánh đã giải thích rằng, chức vị mới này không hình thành nên các quan hệ ngoại giao toàn diện và đầy đủ giữa hai bên Toà Thánh Vatican và Việt Nam, vì chức vị mới này không phải là một vị Sứ Thần hay không phải là vị Khâm Sứ Thường Trực tại Việt Nam. Linh Mục Giám Đốc Thông Tin Báo Chí kiêm Phát Ngôn Viên của Tòa Thánh Vatican lập lại một lần nữa rằng chức vị Đại diện sẽ được chính Đức Thánh Cha chính thức bổ nhiệm và sẽ là "bước đi mở đường" giữa Toà Thánh Vatican và Việt Nam, một cách có hiệu quả, đại diện cho Đức Thánh Cha trong các quan hệ. » và « nhấn mạnh rằng, ở điểm này và tại thời điểm này, chưa có sự đề nghị hay bổ nhiệm chính thức nào được đưa ra. »

 

I. GIÁO LUẬT 1983

 

Trong tương lai, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ bổ nhiệm vị Đại Diện không thường trú này theo những qui định của Giáo Luật.

 

Bộ Giáo Luật có hiệu lực hiệân hành được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.01.1983, qui định một cách chung ‘Các Phái Viên của Đức Thánh Cha’ (Legates of the Roman Pontiff, tiếng Anh và les Légats du Pontife Romain, tiếng Pháp) nơi các Điều từ 362 đến 366, tức không phân biệt các chức vụ Khâm sứ Tòa Thánh (Délégué Apostolique, tiếng Pháp và Apostolic Delegate, tiếng Anh) hay Sứ thần Tòa Thánh (Nonce Apostolique, tiếng Pháp và Apostolic Noncio, tiếng Anh) hoặc Đại Diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam (non-resident Representative of the Holy See for Vietnam, tiếng Anh và non-résident représentant du Saint-Siège pour le Vietnam, tiếng Pháp).

 

1. Quyền Bổ Nhiệm

 

Thay vì liệt kê các điều khoản không sống động, chúng ta hãy đọc bài phỏng vấn của đài BBC Anh quốc với Linh mục Huỳnh công Minh, trợ tá (?) cho Tổng Giám mục Sài Gòn, Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn nói với BBC (xin tóm): « Tôi, cũng như linh mục, tu sỹ, giáo dân, không biết gì cả về việc có văn phòng thường trực hay có người làm đại diện không thường trực của Tòa thánh tại Việt Nam. Tôi gặp Đức Hồng y, Ngài cũng không tỏ vẻ gì là biết về vấn đề này. Điều đó làm chúng tôi rất thắc mắc."

Xin mời đọc bài này tại:

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/06/100629_vatican_vn_bishops.shtml

Chúng ta xem Điều 362: « Đức Thánh Cha có quyền bẩm sinh và độc lập để bổ nhiệm các Phái Viên và gửi họ tới các Giáo Hội địa phương ở tại các nước hay các miền khác nhau, hoặc đồng thời tới các quốc gia và các chính phủ; Đức Thánh Cha cũng có quyền thuyên chuyển và triệu hồi họ, tuy phải tôn trọng các quy luật của quốc tế công pháp liên quan tới việc ủy phái và triệu hồi các Phái Viên đã được thiết lập bên cạnh các chính phủ. »

 

Như vậy, Đức Thánh Cha có tự do hoàn toàn và không cần hỏi trong việc bổ nhiệm ai làm Phái Viên và gửi họ tới các Giáo Hội địa phương. Vì ‘tôn trọng các quy luật của quốc tế công pháp’, Tòa Thánh (Holy See, tiếng Anh và Saint Siège, tiếng Pháp, danh xưng chính thức trong ngoại giao) nên phải có sự đồng ý của chính phủ Việt-Nam để vị Đại Diện có thể đến Việt-Nam dễ dàng, dù không ở tại Việt-Nam.

 

2. Tư cách đại diện cho Đức Thánh Cha

 

Điều 363:

 

(1) Các Phái Viên của Đức Thánh Cha lãnh nhiệm vụ làm đại diện cho chính Ngài cách thường trực tại các Giáo Hội địa phương hoặc cũng tại các quốc gia và chính phủ mà họ đã được cử tới.

 

(2) Tất cả những ai được cử vào Phái Bộ Tòa Thánh như là các đại diện hay là quan sát viên ở các tổ chức quốc tế hoặc bên cạnh các hội nghị hay phiên nhóm, cũng có tư cách thay mặt Tòa Thánh.

 

Thí dụ: Theo bản tin liên hợp Thông tấn xã Công giáo (CNA/EWTN News) ngày 30.06.2010, Linh mục Federico Lombardi SJ, Phát ngôn viên của Tòa Thánh cho biết Đức Tổng Giám mục Celestino Migliore (đã nhiều lần đến Việt-Nam với tư cách Trưởng Phái đoàn Tòa Thánh), Quan sát viên Thường Trực Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc, đã được bổ nhiệm làm Sứ Thần tại Ba lan. Đức cha thay thế Đức cha Jozef Kowalczyk, vừa nhậm chức Tổng Giám mục Gniezno và kiêm nhiệm Giáo chủ Ba lan.

 

3. Phái Viên Tòa Thánh là giây hợp nhất giữa Tòa Thánh với các Giáo Hội địa phương.

 

BBC hỏi Linh mục Minh: “Thưa cha, chuyện này cho thấy điều gì về quan hệ giữa Vatican và các giám mục Việt Nam?”

 

Linh mục Minh đáp (xin tóm): “Tôi rất thắc mắc. Có thể đây là lần đầu tại Việt Nam – kể cả trước 75 Tòa thánh vẫn không có quan hệ ngoại giao với chính phủ VN Cộng hòa, dù có một vị Khâm sứ lo chuyện đạo chứ không phải lo chuyện như bây giờ – có vấn đề ngoại giao giữa Bộ Ngoại giao VN với Bộ Ngoại giao của nước Vatican. Vấn đề hoàn toàn mới, tôi không dám có ‎ý kiến. Vấn đề mới mình không biết thì mình chờ. Nhưng mà rõ ràng tôi cũng thắc mắc. Vấn đề ngoại giao của nước Vatican cũng nằm trong vấn đề Giáo hội, không thể không ảnh hưởng đến vấn đề Giáo hội tại Việt Nam. Tôi có cảm tưởng là với tư cách là Hội đồng Giám mục, trong Hồng y đoàn là cố vấn của Đức Giáo hoàng – mà Đức Hồng y của chúng tôi rõ ràng sáng nay mới đặt vấn đề là có chuyện văn phòng là cái gì? »

 

Linh mục Minh, Tổng Đại diện Tổng Giáo phận Sài Gòn 30 năm, đã trả lời không đúng vì các Đức Khâm sứ vừa Đại diện Đức Thánh Cha vừa bên cạnh Hội đồng Giám mục vừa bên cạnh chính phủ Việt-Nam Cộng hòa cho đến khi bị trục xuất ngày 05.06.1975 (theo nguyên tắc liên tục Chính phủ, việc thay đổi Chính phủ ngày 30.04.1975, Đức cha Henri Lemaître đã trình Ủy nhiệm thư cho Chính phủ Việt-Nam do Tổng thống Nguyễn văn Thiệu đảm nhiệm lúc đó, tháng 05.1969). Xin được chứng minh qua hai điều khoản sau:

 

– Điều 364

 

Nhiệm vụ chính yếu của Phái Viên Tòa Thánh là lo liệu để cho giây hợp nhất giữa Tòa Thánh với các Giáo hội địa phương mỗi ngày được thêm bền chặt và đắc lực hơn. Vì thế, công tác của các Phái Viên của Đức Thánh Cha trong khu vực lãnh thổ của mình là:

 

1. thông tri cho Tòa Thánh về tình hình của các Giáo hội địa phương, và về tất cả những gì liên hệ tới chính đời sống của Giáo hội và thiện ích của các linh hồn;

 

2. giúp đỡ các Giám Mục bằng hành động hay lời bàn, tuy phải tôn trọng việc hành sử hợp lệ quyền bính của các Ngài;

 

3. duy trì sự liên lạc thường xuyên với Hội Đồng Giám Mục bằng hết mọi hình thức cộng tác;

 

4. đối với việc bổ nhiệm Giám Mục, chuyển hoặc đề nghị danh tánh của các ứng viên cho Tòa Thánh, cũng như tiến hành thủ tục thu lượm tin tức về những người được tiến cử, theo như quy tắc Toà Thánh đã ra;

 

5. hết sức cổ động những dự án liên can tới hòa bình, phát triển và sự hợp tác giữa các dân tộc;

 

6. cộng tác với các Giám Mục, để phát động những liên lạc giữa Giáo Hội Công Giáo với các Giáo Hội và giáo đoàn khác, kể cả với các tôn giáo ngoài Kitô giáo;

 

7. cùng với các Giám Mục, bênh vực tất cả những gì liên quan tới sứ mệnh của Giáo Hội và của Tòa Thánh trước mặt chính phủ;

 

8. ngoài ra, thi hành mọi năng ân và chu toàn những ủy nhiệm mà Tòa Thánh đã giao phó.

 

– Điều 365

 

(1) Ngoài ra, Phái Viên của Đức Thánh Cha kiêm nhiệm việc đại diện Ngài bên cạnh các quốc gia theo các quy tắc của luật quốc tế còn có nhiệm vụ:

 

1. cổ võ và duy trì mọi liên lạc giữa Tòa Thánh với chính quyền;

 

2. dàn xếp mọi vấn đề liên hệ tương quan giữa Giáo Hội với quốc gia; và đặc biệt, là lo việc ký kết những thỏa ước hay các quy ước tương tự, cũng trông coi việc thi hành chúng.

 

(2) Khi giải quyết những vấn đề nói ở triệt 1, tùy theo hoàn cảnh đòi hỏi, Phái Viên của Đức Thánh Cha nên tham khảo ý kiến và lời bàn của các Giám Mục trong khu vực và thông báo cho các ngài biết về diễn tiến của tình hình.

 

Khi BBC hỏi tín đồ ở Việt Nam mong đợi gì từ vị đại diện không thường trực? thì Linh mục Minh mong đợi được ‘quyền’ trao đổi: « vì liên hệ, dầu là liên hệ với nước Việt Nam thì chúng tôi đang sống trong nước VN, thì cũng phải có liên hệ với chúng tôi, chúng tôi cũng phải được thông báo… Rất mong mối quan hệ ngoại giao, mong thế nào có lợi cho nước, có lợi cho Giáo hội tại VN và lợi chung cho Giáo hội toàn cầu.

 

Về việc trao đổi, chúng tôi nghĩ điều 362 đã trả lời cho Linh mục. Còn vấn đề có lợi cho nước, cho Giáo hội Việt-Nam và lợi chung cho Giáo hội toàn cầu, chúng tôi đề nghị Linh mục đừng lo vì tuyệt đại đa số Kitô hữu Việt-Nam xác tín Đức Thánh Cha và các Phái Viên Tòa Thánh còn quan tâm hơn Linh mục và năm bảy ‘Linh mục quốc doanh’ có môn bài khác.

 

Còn việc Linh mục Minh dám quả quyết « thái độ của chính phủ hiện nay trong vấn đề với Giáo hội, thì không rõ ràng » là điều ai cũng biết và đã biết từ lâu.

 

Khi BBC hỏi về « giáo sĩ và giáo dân Việt Nam thất vọng về chuyện không được biết thực chất của chuyến làm việc vừa rồi, cũng như chuyện cắt cử vị đại diện không thường trực sắp tới? », Linh mục Minh trả lời: « chúng tôi rất là bức xúc, rất buồn, chứ chúng tôi cũng không dám trách. »

 

Linh mục Minh cho biết « không có hi vọng gì, … tôi chỉ dựa vào Đức Hồng y ở đây. » khi BBC hỏi về « vị đại diện sắp tới liệu có giúp Vatican hiểu được tiếng nói thực chất của các tín đồ cũng như giáo sĩ ở Việt Nam? ».

 

Tuy nhiên, tôi vô cùng ngạc nhiên khi Linh mục Tổng đại diện Tổng Giáo phận Sài gòn nói: « trong hoàn cảnh thực tế của VN hiện tại, của chính phủ VN hiện tại, thì có vẻ nó rất bất lợi cho giáo hội(1) VN, hơn là có lợi cho giáo hội VN, mà cũng sẽ bất lợi cho nước VN, dân tộc VN. »

 

(1) chúng tôi cố gắng giữ nguyên chử viết của BBC hay của Linh mục Minh.

 

Một cách tổng quát, chúng ta nhiều khi không tìm hiểu Giáo luật rồi trách Đức Thánh Cha và, nguy hiểm hơn, khi với chức vụ cao, được truyền thông phỏng vấn, trả lời không đúng, tạo thêm phê phán sai lạc về Tòa Thánh.

 

Cũng trong ngày 29.06.2010, trong bài có tựa đề ‘Vatican bổ nhiệm đại diện tại Việt Nam’, nữ phóng viên Khoa Diễm, đài phát thanh Á châu Tự do (RFA, Radio Free Asia), Hoa kỳ, đã có những dòng tóm thuật khóa họp lần thứ hai của Nhóm làm việc Hỗn hợp Việt Nam-Vatican mà kết quả là: Đức giáo hoàng sẽ cử một đại diện không thường trú của Tòa Thánh cho Việt Nam.

 

Xin mời đọc bài này tại:

 

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/How-do-Vietnamese-Catholics-feel-about-the-outcomes-of-the-second-Joint-Working-Group-meeting-Kdiem-06292010110746.html

 

Để mở đầu phỏng vấn, chị Khoa Diễm gợi ý: « chức vị mới này không phải là một vị Sứ thần hay là vị Khâm sứ thường trực tại Việt Nam và đây là mối nghi ngại của một linh mục không muốn nêu tên tại Việt Nam. » và Linh mục này đáp (xin tóm): « … nghi ngờ vì không chính thức, không rõ vấn đề… chỉ là chuyện chính trị ngoại giao vậy thôi. Tòa thánh có liên lạc ngoại giao với nhà nước Việt Nam thì tốt nhưng không biết như thế nào. Người ta bình luận cũng có cái là sự thật, nhưng sự thật làm đau đớn người ta, người công giáo, người nghèo. Đạo hạnh giữ đức tin cho nó vững vàng mà nhiều khi chỉ nhắm vào chính trị hay ngoại giao thì người nghèo sẽ đau khổ dữ lắm.

 

Chúng tôi xin phép được nói lên cảm tình của mình khi nhận được tin ‘bổ nhiệm đại diện tại Việt Nam’ là vui mừng và hy vọng. Chúng ta nên biết thế này: Tòa Thánh được điều khiển bởi Đức Thánh Cha vừa là Người Lãnh đạo Giáo hội Công giáo vừa là Quốc trưởng Quốc gia Tòa Thánh. Do đó, theo Giáo luật Điều 363, ‘Các Phái Viên Của Đức Thánh Cha’ [Phái Viên được dịch từ la-tin legatus, có nghĩa là ‘người được gởi đi’ (envoyé, tiếng Pháp)] cũng có những nhiệm vụ về Đạo (cạnh Hội đồng Giám mục các nước, lãnh đạo Giáo hội địa phương, theo Giáo luật Điều 364) và về ngoại giao (cạnh Chính phủ của quốc gia, theo Giáo luật Điều 365).

 

Chúng tôi xác tín ‘người nghèo sẽ đau khổ dữ lắm’ không xảy ra đâu mà trái lại. Chúng tôi đã tận mắt thấy Đức Cha Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt-Nam, từ năm 1964 đến 1969, trong biến cố đau thương Tết Mậu thân 1968, đã lê gót khắp nơi để thăm viếng, uỷ lạo các nạn nhân, kể cả các chiến binh miền Bắc trong các trại giam. Khi có dự án y tế, xã hội trợ giúp người nghèo, các đoàn thể sinh viên Công giáo có thể xin gặp Đức Khâm sứ bằng xin hẹn qua Linh mục Vinh sơn Trần ngọc Thụ, Thư ký Đức Khâm sứ (sau này, đã trở thành Đức ông, Thư ký Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II).

 

Hơn thế nữa, Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã viết Thông điệp ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’ (Deus Caritas est, ban hành ngày 25.01.2006) mà các Phái Viên của Ngài không biết hay không thực hành sao ? Nếu những năm 1959 và 1960, Đức Khâm sứ Mario Brini không vì Giáo hội Việt-Nam mà xúc tiến công việc thiết lập ‘Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt-Nam’ ngày 24.11.1960. Ngày nay, Công Giáo Việt-Nam chưa tới lúc để cử hành Năm Thánh hoành tráng năm nay đâu ?

 

Tiếp theo, chị Khoa Diễm lại gợi ý: « Nhiều giáo dân tại Việt Nam tin rằng đây là một tin vui, nhưng nhìn chung họ nhận thấy còn rất nhiều vấn đề liên quan cần phải làm rõ. » và chị mời Ông Nguyễn hữu Vinh, một giáo dân tại Hà Nội cho ý kiến. Ông này cho biết (xin tóm):

 

« Bước tiến về ngoại giao của hai bên là một tin vui. Đức giáo hoàng sẽ bổ nhiệm ra sao, vì qua nhiều sự kiện thì có nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Quan hệ tốt đẹp thì cũng vui thôi… Dù ai là Đại diện hay Khâm sứ, vấn đề chính là Vatican cần hiểu rõ được nội tình và tình hình thực tế của Giáo hội Việt Nam hiện nay để phản ảnh đúng thực chất thì mới có tác dụng tốt cho Giáo hội và Đất nước. Tuy chưa đủ như ngày xưa, Vatican và Việt Nam đã có mối quan hệ rất khắng khít với một Sứ thần Tòa Thánh ở Việt Nam. Nhưng so với gần đây, sau khi chế độ Việt Nam Cộng sản nắm quyền cho đến bây giờ thì tôi nghĩ có một vị đại diện sẽ tốt hơn là không có gì. »

 

Chúng tôi xin chia sẻ phần lớn nhận định này. Đúng ra, Đức Thánh Cha chưa bao giờ cử đến Việt-Nam một Phái Viên ở cấp Sứ thần Tòa Thánh (xin xem phần dưới đây).

 

Nữ phóng viên RFA đặt vấn đề: « nếu vị Khâm sứ hay Sứ thần không phải là người Việt thì liệu người này có thể am hiểu tường tận những gì đang diễn ra tại Việt Nam hay không? ». Ông Vinh đáp: « bất kỳ là người Việt Nam, gốc Việt hay người nước ngoài nhưng phải làm tốt vai trò đại diện, có nghĩa là phải nắm bắt được thực chất của tình hình. »

 

Về vấn đề này, đó là quyền độc lập của Đức Thánh Cha (Điều 362 Giáo luật), nhưng chúng ta cần lưu ý hai điều:

 

– Dù đã nhập tịch nước ngoài, một người gốc Việt khi trở về Quê hương vẫn là người có quốc tịch Việt-Nam vì nhà nước Việt-Nam buộc họ phải có sự chấp thuận của Chủ tịch nhà nước, mới bỏ được Việt tịch.

 

– Là người gốc Việt hay người Việt thì Vị nầy rất có thể có đại gia đình tại Việt-Nam và người cộng sản sẽ đến để ‘săn sóc tận tình’ các thân nhân của Vị này như có nhiều khả năng đã xảy ra (Tổ chức Transparency International xếp Việt-Nam vào hạng 120 trên 180 quốc gia ít tham nhủng nhất thế giới năm 2009).

 

4. Tính cách đặc biệt của nhiệm vụ Phái Viên

 

Điều 366

 

Xét về tính cách đặc biệt của nhiệm vụ Phái Viên:

 

1. trụ sở của Phái Viên Tòa Thánh được miễn trừ khỏi quyền quản trị của Bản Quyền sở tại, ngoại trừ việc cử hành Hôn Phối;

 

2. sau khi thông báo cho các Bản Quyền sở tại mỗi khi có thể được, Phái Viên Tòa Thánh có quyền cử hành mọi nghi lễ phụng vụ, kể cả nghi lễ giáo chủ, trong tất cả các thánh đường thuộc lãnh thổ được đặc phái.

 

Qui định này cho chúng ta thấy hai điểm quan trọng:

 

– Khoản 1. trụ sở của Phái Viên Tòa Thánh được coi như là lãnh địa của Tòa Thánh mà Đức Thánh Cha là Đức Giám mục Rôma. Về mặt ngoại giao cũng vậy, vị Phái Viên Tòa Thánh là thành viên của Ngoại giao đoàn và trụ sở của Phái Viên Tòa Thánh được kể là phần đất của Tòa Thánh.

 

– Khoản 2. Trái lại và hợp lý, khi vị Phái Viên Tòa Thánh rời trụ sở sẽ đi vào lãnh địa của Bản Quyền sở tại (Giám mục Giáo phận) nên cần thông báo cho Vị này.

 

5. Chấm dứt nhiệm vụ.

 

Điều 367

 

Nhiệm vụ Phái Viên Tòa Thánh không chấm dứt khi Tông Tòa trống tòa, ngoại trừ khi nào Ủy Nhiệm Thư đã ấn định cách khác. Nhiệm vụ chấm dứt khi mãn hạn ủy nhiệm, hoặc do sự triệu hồi được cáo tri cho đương sự, hoặc do sự từ chức đã được Đức Thánh Cha chấp nhận.

 

II. PHÁI VIÊN CỦA ĐỨC THÁNH CHA TẠI VIỆT NAM

 

A. Danh sách các Phái viên tại Việt-Nam.

 

1.- Năm 1922, Đức Thánh Cha Piô XI cử Đức cha Henry Lécroart sj, Dòng Tên, Giám mục hiệu tòa Anchialus, Đại diện Tòa Thánh Địa phận (tức Giáo phận ngày nay) Tcheli (Trung quốc) kiêm nhiệm giữ chức vụ Thanh Tra Tòa Thánh (Visiteur Apostolique, tiếng Pháp và Apostolic Visitor, tiếng Anh), đi quan sát tình hình các Địa phận ở Đông Dương, đặc biệt về cách tổ chức các chủng viện và chương trình học vấn.

 

Từ ngày 04 đến 09.02.1923, tại Phát diệm, Đức cha Henry Lécroart, chủ tọa phiên họp với 11 Đức cha và cuộc họp tại Sài gòn với 7 Đức cha ngày 20.06.1923 các Đại diện Tòa Thánh (Vicaire Apostolique, tiếng Pháp, danh xưng Giám mục trước ngày 24.11.1960) Đông Dương đề nghị Bộ Truyền giáo đổi tên những Giáo phận để mang tên các thành phố có Tòa Giám mục.

 

Năm 1922, Thượng thư Bộ Lại Nguyễn hữu Bài, thành viên trong phái đoàn Vua Khải Định sang Pháp, đã sang Rôma yết kiến Giáo Hoàng Piô XI để thỉnh cầu Người bổ nhiệm Khâm sứ tại Việt-Nam và phong chức Giám mục cho các Linh mục bản xứ.

 

2.- Ngày 25.05.1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã cho lập Tòa Khâm sứ Đông Dương và cử Đức cha Constantin Ayuti, Tổng Giám mục hiệu tòa Phasis, làm Khâm sứ Tòa Thánh đầu tiên tại Đông Dương (Việt-Nam, Laos, và Cambodge) để liên lạc giữa Rôma và các Giáo phận truyền giáo tại Việt-Nam, Cam bốt và Ai lao, đặt Tòa Khâm sứ tại Huế. Đức Khâm sứ Tòa Thánh đã xúc tiến cụ thể và tích cực việc hình thành hàng giáo phẩm bản xứ và chọn linh mục Việt-Nam đầu tiên Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng được tấn phong Đức cha tại Rôma ngày 11.06.1933 bởi Đức Piô XI và được bổ nhiệm Phó Đại diện Tòa Thánh với quyền kế vị Địa phận Phát diệm. Đức cha qua đời năm 1928 ở tuổi 25.

 

3.- Để tiếp nối, Đức cha Victor Colombanus Dreyer, O.F.M., Dòng Phanxicô, Tổng Giám mục hiệu tòa Adulis, đảm nhận Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương từ ngày 24.11.1928 và hưu ngày 19.11.1936. Trong thời gian này, các linh mục Việt-Nam được tấn phong Đức cha dần thay thế các Vị ngoại quốc, như Đức cha Đa minh Hồ Ngọc Cẩn năm 1935 được cử Đại diện Tòa Thánh Địa phận Bùi Chu.

 

Ngày 18.11.1934, Đức Khâm Sứ triệu tập Công nghị lần đầu tiên tại Hà nội với sự tham dự của các Đại diện Tòa Thánh Đông Dương. Công nghị soạn thảo và đúc kết xây dựng Quy chế Công nghị Đông Dương để giúp phát triển mọi sinh hoạt của Giáo hội tại đây, đặc biệt trong việc đào tạo Giáo sĩ theo tiêu chuẩn quốc tế và thiết lập mọi tổ chức theo như Giáo luật.

 

4.- Đức cha Antonin-Fernand Drapier, o.p., Dòng Đa minh, Tổng Giám mục hiệu tòa Neocaesarea in Ponto, tiếp tục nhiệm vụ ngày 19.11.1928 đến ngày 18.10.1950, nghỉ hưu.

 

Đức Khâm sứ đã đề nghị Đức Thánh Cha cho phép chủ tế phong Đức cha cho nhiều Linh mục Việt-Nam [Phêrô Martinô Ngô đình Thục (Vĩnh Long) ngày 04.05.1938, Gioan Phan đình Phùng (phó Phát diệm) ngày 13.10.1940, Alselmô Lê hữu Từ,O.C., Dòng Xitô (Bùi chu) ngày 29.10.1945, Phêrô Phạm ngọc Chi (Bùi chu) ngày 15.08.1950] và các Linh mục ngoại quốc.

 

Linh mục Micae Nguyễn khắc Ngữ đã là Thư ký Tòa Khâm sứ tại Huế trước khi được bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Long xuyên này 22.01.1961.

 

5. Ngày 18.10.1951, Đức Cha John Dooley S.S.C.M.E., Tổng Giám mục hiệu tòa Macra, nhận trách nhiệm Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương và dời Tòa Khâm sứ từ Huế ra Hà nội vì, lúc đó, Huế không còn là Thủ đô của Việt-Nam nữa (mà là Đế đô), Khâm sứ Dooley đã quyết định dời trụ sở Toà Khâm sứ ra Hà Nội. Đức Khâm sứ đến Hà nội tháng 12.1951, không tìm được nơi thuận tiên cho Phái đoàn Khâm sứ cư trú, nên Đức cha Giuse Trịnh như Khuê, Đại diện Tòa Thánh Hà nội, cho mượn khu nhà có đầy đủ tiện nghi cạnh Nhà Chung Địa phận Hà nội.. Tháng 06.1959, Đức Khâm sứ bệnh nguy kịch phải đưa đi chửa ở Bịnh viện Pháp tại Phnom Penh (Cambodge). Ba tuần sau, ngày 17.08.1959, Linh mục Terence O’Driscoll, thư ký Toà Khâm sứ bị trục xuất. Linh mục đến Phnom Penh để cùng Đức Khâm sứ về Rôma cuối tháng 08.1959.

 

Từ năm 1959, chính quyền thành phố Hà nội lấy Toà Khâm sứ bị dùng vào các việc khác nhau. Đức Khâm sứ J. Dooley chấm dứt nhiệm vụ ngày 15.09.1959.

 

Nhận Sứ nhiệm Giáo Hoàng ngày 02.03.1939, Đức Thánh Cha Piô XII tiếp nối truyền phong Đức cha cho các Linh mục Việt-Nam và việc tuyển chọn do Đức Khâm sứ cẩn thận phụ trách.

 

6.- Sau Hiệp định Genève, vì Đức Khâm sứ J. Dooley không liên lạc được với các quốc gia thuộc quyền khác, nên, ngày 15.02.1956, Đức Thánh Cha Piô XII cử Đức cha Giuseppe Caprio làm Thanh Tra Tòa Thánh tại Sài gòn (ngụ tại Dưỡng đường Saint Paul) để thi hành Sứ nhiệm tại Việt-Nam Cộng hòa, Laos, và Cambodge. Ngày 13.03.1957, vị Thanh Tra Tông tòa ở Sài gòn được nâng lên hàng Đại lý Khâm sứ (Régent Apostolique). Đức cha được tấn phong Hồng Y năm 1979 và từ trần tại Roma ngày 15.10.2005, ở tuổi 90.

 

7.- Năm 1959, khi Đức Khâm sứ John Dooley mãn nhiệm, Đức Thánh Cha Gioan XXIII liền thiết lập Tòa Khâm sứ tại Sài gòn tại số 176, đường Hai Bà Trưng, Quận Nhất, với Đức tân Khâm sứ Mario Brini. Đức cha chỉ được thăng Tổng Giám mục hiệu tòa Alziza ngày 14.10.1961. Đức Khâm sứ Mario Brini đã góp công lớn trong việc thiết lập ‘Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt-Nam’ ngày 24.11.1960. Ngày 14.10.1961, Đức cha rời Việt-Nam đến Ai cập để nhận chức Sứ thần Tòa Thánh. Đức cha được Thiên Chúa gọi về ngày 09.12.1995, với danh nghĩa Tổng Trưởng Danh dự Thánh Bộ Các Giáo Hội Phương Đông.

 

8.- Đức Cha Salvatore Asta, Tổng Giám mục hiệu tòa Aureliopolis in Lydia, được Đức Thánh Cha Gioan XXIII bổ nhiệm vào chức vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương, ngày 13.10.1962. Đức Cha đã rời Việt-Nam năm 1964 để nhận nhiệm vụ Sứ thần Tòa Thánh tại Iran.

 

Giáo hội miền Nam tự do, với tín hữu Công giáo từ miền Bắc vào, phát triển nhanh chóng, nên công tác dạy Giáo lý tân tòng rất được chú trọng. Các hội đoàn Công giáo Tiến hành, các Dòng Tu nam nữ phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu mục vụ. Các Viện Đại học Công giáo được thành lập: Đà lạt, Minh Đức và Giáo hoàng Học viện Piô X (một Chủng viện chuyên dạy về Triết học và Thần Học, thuộc quyền quản trị đặc biệt của Tòa Thánh).

 

9.- Ngày 17.06.1964, chức vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương được đổi thành Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt-Nam và Đức Cha Angelo Palmas, Tổng Giám mục hiệu tòa Vibiana, được giao nhiệm vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại Sài gòn. Hình ảnh Đức Cha được ghi nhận là một Giáo sĩ niềm nở với mọi người Việt, lương cũng như giáo. Đức Khâm sứ đã chủ tọa Thánh Lễ phong Đức cha cho các Linh mục Giacobê Nguyễn ngọc Quang, Giuse Lê văn Ấn, Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Phêrô Nguyễn huy Mai, Giacobê Nguyễn văn Mầu.

 

Đức Cha đã rời Việt-Nam ngày 19.04.1969, với những lời cám ơn nồng nhiệt của Chánh phủ và người dân Việt, để đi nhận chức Sứ thần Tòa Thánh tại Colombia. Đức Cha từ trần ngày 09.06.2003 tại Canada.

 

10. Đức Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt-Nam cuối cùng, cho đến hiện nay, là Đức Cha Henri Lemaitre được Đức Thánh Cha Phaolô VI cử vào chức vụ Tổng Giám mục hiệu tòa Tongres kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt-Nam và Cambodge, thường trú tại Sài gòn. Đức Cha đã đồng hành trong sự khó khăn như bao người dân miền Nam, sau ngày 30.04.1975.

 

Ngày 14.05.1975, một nhóm linh mục và giáo dân ‘yêu nước’ có những hành động và đòi Đức cha từ chức vì có trách nhiệm trong việc bổ nhiệm Đức cha Phanxixô Xaviê Nguyễn văn Thuận vào nhiệm vụ Tổng Giám mục phó Sài-gòn. Tối 03.06.1975, họ trở lại lần nữa và ở lỳ qua đêm. Can đảm và tin cậy vào Thiên Chúa, Đức Khâm sứ đã hoàn thành mỹ mãn nhiệm vụ Phái Viên của Đức Giáo Hoàng bên cạnh Hội đồng Giám Mục Việt-Nam và Chính phủ Việt-Nam, trước khi chánh quyền cộng sản yêu cầu Đức Cha rời khỏi Việt-Nam ngày 05.06.1975, cắt đứt quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh Vatican. Ngày 19.12.1975, Đức cha nhận chức Sứ thần Tòa Thánh tại Uganda và qua đời tại Hòa lan ngày 20.04.2003.

 

11. Đức ông Francesco De Nittis được cử tới Việt-Nam để xử lý thường vụ Khâm sứ khi các Đức Cha Salvatore Asta và Angelo Palmas rời Việt-Nam để tham dự Công đồng chung Vatican II trong những năm 1962, 1963 và 1964. Đức ông đã chủ toạ Lễ Khánh thành Giáo hoàng Học viện Piô X ngày 23.04.1964.

 

B. Danh sách các Phái viên Việt-Nam.

 

Hiện tại, một Đức cha Phêrô Nguyễn văn Tốt, người Việt-Nam, đang là Sứ thần Tòa Thánh tại Costa Rica, sau khi đã là Sứ thần Tòa Thánh tại Benin, Togo, Trung phi và Chad từ năm 2002.

 

Hà Minh Thảo

 

Views: 0

Người đăng bài viết

Joe M.D.