Nguyễn Tuấn
Hôm nay (30/4) là một ngày lịch sử. Bốn mươi sáu năm trước đúng vào ngày này, chánh thể VNCH sụp đổ, và thay vào đó là một thể chế mới mà hậu quả còn kéo dài cho đến ngày hôm nay.
Nhiều khi tôi tự hỏi: nếu không có ngày 30/4/1975 thì tôi và nhà tôi đã ra sao? Khó đoán ngược lịch sử ở bình diện lớn, nhưng ở cấp độ gia đình thì đoán được.
Không phải là ‘Ngày giải phóng‘
Tôi chắc rằng nếu không có ngày định mệnh đó, ba má tôi đã mua thêm 1-2 chiếc máy cày để thêm cho 2 chiếc đang phục vụ cho cả làng. Ba má tôi cũng có thể có thêm vài chục, thậm chí cả trăm công đất để canh tác. Nói chung là gia đình làm ăn khấm khá.
Anh Hai tôi chắc chắn đã không vượt biển để rồi mất tích cùng 20 người khác trên Biển Đông. Anh Hai sẽ vẫn là ‘star’ của cả dòng họ vì học giỏi, đẹp trai và là kĩ sư tài ba. Cả dòng họ, ai cũng tự hào vì anh.
Tôi và ông anh cùng nhỏ em gái chắc chắn cũng sẽ không ở Úc như ngày hôm nay. Tôi sẽ tốt nghiệp và có công ăn việc làm khá giả ở trong nước, tuy không phải là star như anh Hai, nhưng không đến nổi phải đi lột củ hành ở Sydney. Anh tôi sẽ thay thế ba tôi điều hành cái business gia đình, và sẽ cùng với mấy người anh họ mở rộng business. Mấy người em gái tôi tốt nghiệp trung hay đại học và có thể phụ giúp điều hành cái ‘business’ của gia đình. Tụi nó có thể sẽ dọn ra Rạch Giá hay lên Sài Gòn.
Thế nhưng ngày 30/4/75 đã đến. Theo sau đó, là biết bao nhiêu đổi thay ! Ba má tôi bị nhà nước lấy hết ruộng đất, chỉ để lại chừng 20 công đủ sống. Máy cày thì bị tịch thu, và mất luôn. Cả nhà lâm vào cảnh khốn khó chỉ sau 1-2 năm với chế độ mới. Tuy không đến nổi ăn bo bo như nhiều gia đình khác, nhưng kinh tế gia đình suy sụp thấy rõ. Anh Hai tôi vượt biển và mất tích, làm cho Má tôi suy sụp một thời gian. Tôi và anh em cũng vượt biên nhưng may mắn sống sót. Tụi tôi ở nước ngoài phải ‘chi viện’ mỗi tháng cho gia đình bên VN, vì lúc đó ba má tôi không còn business nữa và ruộng thì chỉ làm đủ sống. Từ một gia đình sung túc bổng trở thành nghèo khó chỉ trong vòng 2 năm gì đó.
Do đó, đối với nhà tôi thì ngày 30/4 không phải là ngày giải phóng. Đó là ngày mà cả kinh tế gia đình bị suy thoái đến mức khốn khó. Mà, không phải chỉ gia đình tôi đâu, nhìn chung quanh ai cũng vậy. 100% đều bị lâm vào cảnh khốn khó. 100% ! Thành ra, gọi là ngày giải phóng không chỉ là áp đặt, ngạo mạn, mà còn rất bậy bạ !
Nhìn ‘bức tranh lớn’
Có thể nói rằng chế độ mới đã kéo lùi sự tiến bộ của Việt Nam (hay nói đúng hơn là miền Nam Việt Nam) cả nửa thế kỉ. Phải đi vòng quanh các nước như Singapore, Thái Lan, và Mã Lai mới thấy Việt Nam mình nghèo và lạc hậu ra sao. Ngay cả hôm nay, Việt Nam tuy có khá hơn chút, nhưng nhìn kĩ thì không khá chút nào đâu vì kinh tế lệ thuộc vào vài ba tập đoàn nước ngoài, và chúng ta đa phần chỉ là những kẻ gia công lương thấp mà thôi.
Chỉ một công ty Samsung mà đã chiếm 28% tổng GDP quốc gia ! Nếu công ty này (và cả Formosa) hắt hơi thì chắc kinh tế Việt Nam sẽ bị cảm lạnh.
Trong nửa thế kỉ đó, người hưởng lợi nhiều nhứt là các đồng hương miền Bắc và người bị hại nhiều nhứt là người miền Nam. Từ đó gây ra một sự chia rẽ mà thể chế mới không chịu ghi nhận. Ngay từ những ngày sau 30-4-1975, người miền Nam đã bị đối xử như công dân hạng hai trên quê hương mình, và theo thời gian tình hình tạo ra một lợi thế cho bên gọi là ‘thắng cuộc’.
Ông Nguyễn Hiến Lê là một học giả nổi tiếng trước 1975. Ông là người gốc Hà Nội nhưng từng ở Long Xuyên trong một thời gian dài, nơi ông soạn nhiều quyển sách có giá trị. Ông tự nhận là người “có cảm tình với ‘cách mạng'”. Nhưng sau 1975 thì ông vỡ mộng, và có viết hồi ky’. Sau đây là những trang/dòng bị kiểm duyệt trong cuốn hồi ky’ viết về những gì xảy ra sau 30-4-1975 [2].
Trong cuốn hồi ky’ ông ghi lại những thất bại sau 1975. Đó là sự mất đoàn kết, phân chia giai cấp, thiếu kỉ luật, suy sụp kinh tế. Ông viết về một xã hội sa đoạ, với tham nhũng tràn lan, ăn cắp, và buôn lậu, và kì thị Bắc – Nam. Ông tóm tắt về một thời mà có lẽ ngày nay ít ai quan tâm hay biết đến:
- Sự ngạo mạn của những người ‘thắng cuộc’: những biện pháp nhằm san bằng chế độ cũ để không để lại dấu vết nào cả. “Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ”. Nhưng khổ nỗi những nhân viên cũ là những người có học và thực tài, còn người mới thì vừa dốt, vừa ngạo mạn, nên chẳng làm được quai’ gì !
- Chia rẽ Nam – Bắc: ngay từ thời đó (1980) dấu hiệu chia rẽ Nam – Bắc đã rõ nét. Ông viết “Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ Chi Minh dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kĩ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến.”
- Ngay cả cùng phe cũng chẳng có đoàn kết: “Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn ‘nằm vùng’ cũng không ưa bọn tập kết về.”
- Khinh miệt: ông so sánh: “[…] Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hóa; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc […] cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm, chứ đừng nói là người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là “ngụy” hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là ngụy với nhau mà !”
Cách đây vài năm, một bài báo trên Bloomberg chỉ ra những ‘khoảng cách’ Bắc – Nam:
- Khoảng 70% thành viên nội các chánh phủ là người miền Bắc, chỉ có 30% là từ miền Nam và Trung;
- Khoảng 68% (2 phần 3) đảng viên đảng cộng sản Việt Nam là từ Quảng Trị trở ra phía Bắc;
- 25 tập đoàn kinh tế được đặt tổng hành dinh ở Hà Nội, nhưng họ làm ăn trong Nam.
Ngay cả cái trụ sở Uỷ hội sông Cửu Long cũng được đặt ở Hà Nội, cho nên thỉnh thoảng nghe các vị ấy phát biểu thi`người miền Tây chỉ cười ngất !
Do đó, không ngạc nhiên khi những vị trí lãnh đạo các ngành mà người trong nước gọi ‘thơm’ đều do người miền Bắc nắm giữ: hàng không, hải quan, dầu khí, v.v. Người miền Nam chỉ làm phụ hay được bổ nhiệm cho có ‘hoa lá cành’. Trớ trêu một điều là những người làm thất thoát cho Nhà nước nhiều nhứt cũng là người Bắc.
Những ai có dịp ra ngoài Bắc sẽ thấy cơ sở hạ tầng (như đường xá) được đầu tư rất tốt. Từ Ninh Bình đi Hà Nội chỉ mất chừng hơn 1 giờ đồng hồ vì đường xá rất tốt mà ít xe. Có một tấm hình người dân ngồi nhậu trên xa lộ miền Bắc ! Ngược lại, ở trong Nam thì chỉ có 2 đường cao tốc ngắn mà lúc nào cũng kẹt xe ! Con đường từ Sài Gòn về Kiên Giang chỉ 260 km mà phải mất 6 giờ đường ! Thành ra, ở trong nước người dân miền Nam chỉ ra rằng ngoài Bắc thừa đường mà thiếu xe, nhưng trong Nam thì thiếu đường mà thừa xe. Nhưng ai mà nói ra trên mặt báo là bị phạt vì ‘chia rẽ Bắc Nam’.
Thực tế đã là chia rẽ rồi ! Ví dụ như người dân Sài Gòn làm 100 đồng thì chỉ được giữ 18 đồng (con số năm 2017) thì tiền đâu mà chi cho cơ sở hạ tầng. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 1000 km đường cao tốc, nhưng chỉ có chừng 106 km là ở miền Nam. Giải thích như thế nào về sự khác biệt đó cũng không thể thuyết phục người dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi đóng góp mỗi năm hơn 15 tỉ USD cho xuất khẩu và ngân sách Nhà nước.
Trong bài báo trên Bloomberg, người ta trích dẫn nhận định của một nhà báo kỳcựu Huy Đức (tác giả quyển sách ‘Bên thắng cuộc’) rằng ‘This present regime has never seriously thought of true reconciliation issues, […] They always affirm themselves as the winner of the war and the master of the nation’ (dịch: chế độ này chưa bao giờ nghĩ đến hoà giải dân tộc thật sự […] Họ luôn tự khẳng định mình là kẻ thắng cuộc trong chiến tranh và là chủ nhân ông của đất nước).
***
Nhiều người tre trẻ, thậm chí có tuổi ở miền Bắc, hay than phiền rằng những kẻ như tôi hay thế hệ tôi hay nhớ chuyện xưa. Họ nói rằng người trong nước không ai còn nghĩ chuyện xưa đó nữa. Sai. Ở trong nước người ta vẫn ăn mừng ‘chiến thắng’ đó chớ, vẫn ra rả chửi chánh thể VNCH (nhưng lại vui vẻ nhận thành tựu của nó). Tôi nghĩ đó là một kiểu chạy trốn lịch sử. Nó chẳng khác gì kẻ làm cho nạn nhân đau khổ, lấy nhà người ta, lấy đất của nạn nhân, thậm chí giết chết thân nhân, rồi quay lại vỗ vai dạy nạn nhân rằng ‘hãy quên quá khứ.’ Một sự xúc phạm đến nạn nhân. Một sự ngạo mạn với lịch sử !
Thật ra ở trong nước có vài thế hệ bị tẩy não lịch sử, nên họ chẳng biết gì về một giai đoạn đầy biến động và tang thương. Ngay cả nhiều người trong chánh phủ hiện nay (sinh ra sau 1975) cũng chẳng biết gì về một giai đoạn bi thảm mà cả trăm ngàn người Việt bỏ mạng trên biển. Những người gây ra những tang thương đó đã qua đời, nhưng con cháu họ thì ngày nay vẫn còn và đang tận hưởng ‘thành tích’ của cha ông họ. Họ thường là những người hay nói ra những lời nói nồng nàn nhưng vô nghĩa. Điều cần thiết nhứt hiện nay là sự thành thật với lịch sử và trả lại sự công bằng cho miền Nam.
GS Nguyễn Tuấn
Views: 0