Phạm Văn Bản
Phong trào tảy não nhân dân được gọi là “cải tạo văn hóa” của Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) phát động, và ủy quyền cho Thủ Tướng Phạm Văn Đồng thành lập một Ban Nghiên Cứu Lịch Sử – Địa Lý – Văn Học, rồi sắp xếp Trần Huy Liệu làm trưởng ban và đặt sự chỉ đạo trực thuộc trung ương đảng, sau này đổi tên là Ủy Ban Khoa Học Xã Hội. Mục đích của phong trào đấu tố tư tưởng là truyền bá, tẩy não, đầu độc các tầng lớp thanh thiếu niên Việt Nam bằng lý tưởng Mác-Lê nhằm đánh mất chính mình, mất tinh thần đồng bào, mất nhận thức làm người để biến thành sinh vật kinh tế phục vụ cho đảng Cộng Sản Chủ Nghĩa.
Vì thế đảng phải phủ nhận mọi thành quả xây dựng và kiến thiết quốc gia, mở mang bờ cõi, phát triển đời sống xã hội nhân bản của Tổ Tiên, của Vua Quan Việt, đặc biệt của thời Nhà Nguyễn cận đại. Cộng Đảng áp dụng nguyên lý đấu tranh giai cấp trong Làng Xã Việt, lái hướng mọi người đi vào con đường xích hóa của Tư Bản Đỏ theo chủ trương độc tài, độc tôn, độc đoán và toàn trị.
Phong trào tảy não không chỉ dừng lại ở sự thay đổi tư tưởng, hay thái độ sống hoặc cung cách cư xử với nhau trong tình nghĩa đồng bào Một Bọc Trăm Con của từng người Việt Nam, mà Cộng Đảng kích động toàn dân thành một lực lượng vũ trang bảo vệ Chủ Thuyết Mác-Lê nhằm xóa bỏ nguồn gốc của Chánh Thuyết Tiên Rồng. Việc làm của ban “cải tạo văn hóa” không chỉ lôi kéo học sinh/ sinh viên ra khỏi sự nhận thức chính đáng của sử liệu Việt học, mà đảng đầu độc các lớp người trẻ tin tưởng mù quáng vào ý thức hệ của tà thuyết cộng sản ghi trong tài liệu, báo chí, sách sử do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội soạn thảo và ấn hành.
Do đó, mỗi khi nghe nhắc tới công lao, sự nghiệp dựng nước giữ nước của Tổ Tiên, thì lớp thanh thiếu niên Việt Nam đều đánh mất khả năng suy xét hay nhận thức của tự do cá nhân, mà chỉ phản xạ tự nhiên và thốt ra lời khinh khi, miệt thị, bổ báng các bậc Tổ Tiên Ông Bà, ví dụ: “Chế độ phong kiến,” “quân chủ chuyên chế,” “vua quan bán nước…” Mọi người đều phủ nhận giá trị lịch sử ngàn đời dựng nước và giữ nước của dân tộc, cắt đứt truyền thống chính trị dân chủ Diên Hồng, hủy hoại tinh thần đồng bào trong xã hội Việt.
Đây cũng là một nhát búa bổ vào đầu chúng ta mỗi khi nghe con cháu thời nay phát biểu như thế, và đó trở thành “chướng ngại cộng sản” trong công cuộc xây dựng kiến thiết quốc gia của toàn dân Việt Nam hôm nay và ngày mai.
Những thế hệ học sinh/ sinh viên ngày nay bị tiêm nhiễm tài liệu sách vở báo chí do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội tuyên truyền đầu độc và đấu tố, họ luôn tỏ lòng vô ơn cũng như lộ chí căm thù vua quan Nhà Nguyễn như những lời kết án ghi trong giáo khoa: “Chế độ quân chủ chuyên chế cực kỳ phản động – Nhà Nguyễn tăng cường bộ máy đàn áp – Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát – Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà – Tự Đức bán rẻ đất nước cho thực dân Pháp…” Tóm lại, cả nước đều học tập phát biểu rập khuôn theo lập luận đấu tố của cộng sản và đắc tội với Tổ Tiên.
Thật vậy Ủy Ban Khoa Học Xã Hội đã chà đạp nhân quyền, thủ tiêu công lý, phán xét một chiều về cách lãnh đạo và điều hành dân nước các vua quan nhà Nguyễn bằng những ngôn ngữ thiếu trầm tĩnh và đầy tính chất khủng bố cực đoan của con người Cộng Sản. Xin hỏi, dân tộc Việt Nam sẽ gặt hái được gì trên chính trường văn hóa thế giới? Chính quyền Cộng Sản ngày nay sẽ trả lời ra sao, một khi cho rằng đảng ta cứ thiếu lễ nghĩa liêm xỉ, cứ hãm huyết phun người, cứ tuyên truyền lừa bịp toàn dân… thì chính nghĩa giải phóng dân tộc ngày nay với thực dân xâm lược ngày trước, có biên giới nào khác biệt chăng? Hay tất cả chỉ là một bọn giặc nước!
– Lịch Sử Việt Nam Tập I
Đọc Lịch Sử Việt Nam tập I phát hành năm 1971, các tác giả Ủy Ban Khoa Học Xã Hội đều lập luận một chiều theo chủ trương của phong trào cải tạo tư tưởng mà Cộng Đảng chỉ đạo, chớ không viết theo tư duy, sử học hay nhận thức của tự do cá nhân:
– Triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tội ác trời không dung, đất không tha, để cho tên tuổi đất nước một lần nữa, sau hàng ngàn năm độc lập, bị quân cướp nước xóa khỏi bản đồ thế giới.
– Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân.
– Triều Nguyễn là vương triều tối phản động. Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em.
– Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế.
Xuyên qua nội dung người ta thấy rằng những đề tài trên đây không được thảo luận một cách thẳng thắn, đúng đắn theo khoa học, mà chỉ tòan những lời bịa đặt, xuyên tạc và thóa mạ Nhà Nguyễn nhằm gán ghép và truyền dạy cho lớp người thanh thiếu niên Việt Nam tỏ lòng vô ơn tiền nhân, phủ nhận những nỗ lực, hủy hoại những giá trị thành quả trong đại cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước của vua quan Việt Nam nói chung, và triều Nguyễn nói riêng.
Tất cả làm thành một nhát gươm chặt đứt nguồn mạch hay truyền thống chính trị của Việt Nam, khiến cho toàn dân không còn Hồn Nước, tức chỉ là lớp người nô lệ vô hồn. Vì rằng Hồn Nước phải bao gồm toàn thể lịch sử, tinh hoa văn hóa mà tạo nên tinh thần sống, truyền thống của một dân tộc.
Hồn mất trước, Nước mất sau.
– Lịch Sử Việt Nam Tập II
Thứ đến cuốn Lịch Sử Việt Nam tập II phát hành năm 1985, các tác giả Ủy Ban Khoa Học Xã Hội lại tiếp tục đấu tố nhà Nguyễn theo kiểu lên án địa chủ trong thời kỳ cải tạo nông nghiệp của đảng. Cộng đảng đã không tự giới hạn được ngôn ngữ, cho nên mỗi câu mỗi chữ trong những bài viết đã làm cho người đọc có cảm tưởng như mình đang nghe “Bác Đảng” chửi tục – trong khi vua quan nhà Nguyễn đã về chầu Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi – bởi thế các Ngài đã không thể lọt tai.
Trước mắt và đối diện với cuốn sách Lịch Sử Việt Nam gồm có ba thành phần là tác giả, Cộng Đảng (Ủy Ban Khoa Học Xã Hội), và người đọc, nhưng khi chúng ta đọc kỹ những tài liệu này đã không thẩm định được nội dung mà “Bác Đảng” muốn trình bày với nhân dân điều gì? Hoặc phá nước chăng? Hay bán nước chăng? Muốn phò Tàu chăng? – Có lẽ là như vậy.
– Triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt – Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn – Cực kỳ ngu xuẩn.
– Nhà Nguyễn đã tăng cường bộ máy đàn áp – Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát – Chế độ áp bức bóc lột nặng nề – Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động – Chính sách đối ngoại mù quáng.
– Tên chúa phong kiến bán nước số một là Nguyễn Ánh – Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp.
Đang khi theo sử liệu của Việt học cho ta thấy rằng người khởi đầu dựng nghiệp Nhà Nguyễn, là Nguyễn Kim (1468 – 1545). Sau khi Nhà Hậu Lê bị Nhà Mạc cướp ngôi năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống lại Nhà Mạc. Nguyễn Kim tìm được người con Vua Lê Chiêu Tông mà lập ngôi nối tiếp là Vua Lê Tang Tông. Nhờ công trạng này Nguyễn Kim được phong chức Quốc Công và điều hành quân đội. Nguyễn Kim về sau bị người họ Mạc dùng thuốc độc trả thù.
Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng được phong Quận Công, nhưng binh quyền lại lọt vào tay anh rể, Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm giữ quyền chỉ huy quân đội và trông coi triều chính. Để giảm bớt thế lực họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông.
Lo sợ cho mình cũng bị diệt trừ Nguyễn Hoàng đã xin vào trấn đất Thuận Hóa theo lời khuyên “Hoành sơn nhất đái vạn dung thân – Một dải Hoành sơn có thể dung thân lâu dài” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – Chúng ta cần thấy rằng, chỉ một lời nói của Trạng Trình đã giải quyết cho hai thế lực thù nghịch đối kháng mà cứu được toàn dân Việt Nam thóat cảnh chiến tranh đao binh, và đồng thời còn mở rộng thêm đất đai bờ cõi cho Việt Nam – chớ không làm mất đất đai, biên giới, hải đảo… như triều đại Cộng Sản.
Trịnh Kiểm trao quyền cai quản miền Nam cho Nguyễn Hoàng vào năm 1558, bao gồm phần đất thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam ngày nay. Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ phương nam, mở rộng biên giới và xâm lấn đất đai của Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế Quốc Khmer nhường lại đất xứ Phù Nam, tức miền Nam Việt Nam ngày nay.
Kết qủa Nhà Nguyễn đã góp công đầu trong đại cuộc Mở Nước, xây dựng và phát triển đất nước hùng hậu như trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ do Quốc Sử Quán triều Nguyễn ấn hành vào thế kỷ 19 đã ghi rõ Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa, và toàn bộ cương vực này là thuộc Đại Việt.
Các chúa Nguyễn ngày ấy, về hình thức vẫn thần phục vua Lê và xưng chúa. Nguyễn Hoàng được tôn là chúa Tiên, vì người mở đầu cho sự nghiệp tiên đế của nhà Nguyễn ở phương nam. Con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, Chúa Sãi lên ngôi năm 1613, là người mang họ Nguyễn Phúc và từ đó con cháu trong dòng đều mang họ này. Sáu đời sau Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vào năm 1738, là người xưng vương, Vũ Vương vì chúa Trịnh ở phương Bắc đã xưng vương, đang khi vua Lê chỉ còn hư vị.
Vũ Vương chết, theo di chúc người nối nghiệp là Nguyễn Phúc Luân, nhưng phản thần Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần 12 tuổi lên ngôi Định Vương năm 1765, nhằm dễ bề thao túng. Trương Phúc Loan là người độc ác, tàn bạo nên bị dân chúng óan hận và nổi lên khởi nghĩa, trong số ấy có anh em nhà Tây Sơn.
Tây Sơn được lòng dân nên thế lực rất mạnh khiến chúa Nguyễn phải toàn tâm đối phó. Nhân cơ hội này, chúa Trịnh đem quân vào lấy cớ là giúp chúa Nguyễn trị Trương Phúc Loan, nhưng sau khi bắt được Trương Phúc Loan quân Trịnh tiếp tục đánh chiếm Phú Xuân, năm 1775. Chúa Nguyễn phải chạy vào Quảng Nam, tới năm 1777 Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn, bắt giết tất cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, và nhiều người và thuộc dòng tộc Nguyễn Phúc, chỉ còn người con duy nhất của Nguyễn Phúc Luân, là Nguyễn Phúc Ánh chạy trốn thoát.
Năm 1778 Nguyễn Phúc Ánh quay lại và tập hợp lực lượng đánh chiếm Gia Định và tới năm 1780 xưng vương. Tây Sơn sau đó nhiều lần tấn công Nguyễn Vương khiến vương trốn chạy và quay lại nhiều lần. Mãi cho đến năm 1790 Gia Long mới chiếm trọn Gia Định, tỏ ra là một trang anh hùng nghĩa khí, xây dựng nền độc lập tự chủ, mở mang bờ cõi và thống nhất lãnh thổ Việt Nam.
Vua Gia Long rất xứng đáng là tấm gương cho con cháu Việt Nam chúng ta noi theo.
– Đại Cương Lịch Sử Việt Nam
Đọc tiếp đến cuốn sử mới đây có tên, Đại Cương Lịch sử Việt Nam (2007) do Đinh Xuân Lâm biên soạn. Ông Lâm được chính quyền Việt Nam hiện thời ca tụng là giáo sư có công xây dựng Bộ môn Lịch sử cận đại và hiện đại… Giáo sư Lâm còn là Phó Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử, và là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trung tâm UNESCO. Tác giả viết:
-Triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đoàn phong kiến tối phản động trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ.
– Nhà Nguyễn là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ vớimột chế độ chính trị lạc hậu, phản động. Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn.
Và, các biện pháp khai hoang hay mộ dân lập ấp của Nhà Nguyễn, ông Lâm cho rằng nó “đã xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.”
– Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách.
– Đối nội, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng.
– Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước tư bản phương Tây thì chúng thi hành ngày một thêm gắt gao chính sách bế quan toả cảng và cấm đạo, giết đạo.
– Với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương Tây.
Xuyên qua nội dung của cuốn sách Đại Cương Lịch sử, chúng ta thấy rằng gía trị của một người mưu cầu hạnh phúc cho dân, cho nước đã chỉ có thể được đo bằng sự hy sinh, lòng xả kỷ và tinh thần phục vụ lợi ích dân nước… Một vài bộ sách, một vài hình thức hoạt động thì chưa phải là điều “ắt có và đủ” để kết luận việc làm của giáo sư như theo lời tán tụng “nhà nước…” — chỉ là “Chí Phèo” tên một nhân vật trong tiểu thuyết tiền chiến. Đây cũng là điều hoang tưởng của nhiều giáo sư… thái độ ấy, người ta cho là quá khích, cực đoan, không ích lợi gì cho việc phát triển đất nước mà tác giả muốn trình bày.
– Xuyên tạc lịch sử và chà đạp sách sử “Đại Nam Thực Lục”
Đại Nam Thực Lục là bộ sách ghi chép các sự kiện từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) cho tới đời vua Khải Định (1925), do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, gồm hai phần tiền biên và chính biên được viết vào năm Minh Mạng thứ hai (1821) sau 88 năm công phu soạn thảo tới năm 1909 mới hoàn thành:Tiền biên có 2 kỷ và Chính biên 6 kỷ, và được dịch ra Quốc Ngữ từ nguyên bản Nho Ngữ vào năm Khải Định thứ 9 (1924) để giúp cho chúng ta tra cứu dễ dàng.
Thế nhưng vào năm 1961, trước khi cho sửa đổi và tái bản Đại Nam Thực Lục, các tác giả của Ủy Ban Khoa Học Xã Hội đã đồng loạt viết tài liệu giới thiệu với chủ đích đấu tố bộ sử triều Nguyễn như đã thực hiện trong phong trào cải tạo ruộng đất, với hai chiến thuật mà họ đã công phu tập luyện tới mức vô địch thượng thừa; đó là đánh “du kích và bắn sẻ;” đồng thời khai thác triệt để hai chiến thuật này vào các mặt trận quân sự, kinh tế, xã hội, ngoại giao, tôn giáo và văn hóa, khiến cho người ta nhớ lại câu chuyện Gà đẻ trứng vàng trong cổ học Đông phương, để phòng ngừa du kích và bắn sẻ.
Các ông trong ban quản giáo này có con gà đẻ trứng vàng. Lúc đầu họ chờ gà đẻ tự nhiên mỗi ngày một trứng, nhưng một hôm họ làm theo chủ trương chỉ đạo nhà nước, muốn có nhiều vàng một lúc và sử gia quyết định làm thịt con gà Đại Nam Thực Lục. Nhưng khi mổ gà ra, lại chẳng thấy có trứng vàng. Tác giả đã không hiểu con gà nhà Nguyễn là nguồn sản xuất và cái trứng, thành tựu cải cách, là sản phẩm. Hóa ra thì tất cả chỉ muốn “lượm trứng,” chớ không “xuất của” để mua thực phẩm nuôi gà:
– Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh (1558-1888) những công việc mà các vua chúa nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta.
– Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam Thực Lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn…
– Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử… vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức.
Tóm lại, chúng tôi mong rằng các sách sử tương tự như của Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Ủy Ban Khoa Học Xã Hội và Đảng Cộng Sản cần công khai nhận lỗi, tôn trọng lịch sử và giáo dục. Những điều chúng tôi trình bày nơi đây không làm phiền lòng tác giả cũng như độc giả. Chúng tôi hy vọng tình trạng phê bình chủ quan, giáo điều tắc trách về sử liệu của phong trào cải tạo tư tưởng, cần phải được chấm dứt ngay và không còn tái diễn, để trả lại không khí trong sạch của sử học cho những người Con Cháu Việt đang cố gắng tô điểm cho nền văn hóa và lịch sử, ngõ hầu tìm lại truyền thống bất khuất của Tổ Tiên để thực thi đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước ngày nay. Mong thay!
Tác giả viếng thăm Cố Đô Huế trong dịp Xuân Canh Dần và
viết bài nhận định Vương Triều Nhà Nguyễn
cùng những hậu quả giáo dục học đường tại Việt Nam ngày nay
Views: 0