NguyenUSA
Hắn tay đẩy cái xe đi chợ ra bãi đậu xe, tay kia loay hoay rút chìa khoá thì hắn chợt thấy cái bóp của ai, đánh rơi dưới đất. Tò mò hắn cúi xuống, lượm cái bóp lên, mở ra xem thì chỉ có tờ giấy 5 đôla và một phong bì thư, ngoài ra không có gì khác, không giấy tờ, hình ảnh, biên lai,…
Hắn thấy trên phong bì tên người gửi là TTT, cư ngụ tại 59/15 Hai Bà Trưng Đà Lạt còn người nhận là LVT, Khu bưu chính của VNCH ngày xưa, rồi ngay cả con tem cũng của VNCH với cái dấu mộc ngày 18-02-1975. Cái địa chỉ làm hắn nhớ đến cái xóm vườn bà H, vì xóm này nổi tiếng với gia đình ông Y, có 4 bà vợ, 18 đứa con, sống đề huề dưới chung mái nhà. Ông y tá này làm ở viện Pasteur thì phải, chiều chiều đi chích dạo. Ai bị bệnh, đau ốm gì thì cứ sai con lên nhà ông Y này kêu đến nhà tiêm vài ống thuốc bổ. Ông có cái tật tiêm mông xong thì tiêm luôn phía trước nên cuối cùng đem 4 bà vợ về ở cùng nhà. Gia đình sống rất đầm ấm, không có vụ ghen tương lộn xộn như những nhà khác.
Hắn tò mò mở phong bì ra xem để coi có tin tức của khổ chủ, chỉ võn vẹn một lá thư cũ. Hắn tò mò đọc thì hoá ra lá thư cuối cùng của một cô gái cự ngụ tại Đà Lạt, gửi cho một Quân nhân VNCH, cho biết là Đà Lạt sắp bỏ ngỏ nên gia đình cô nàng chuẩn bị, di tản về Sàigòn. Có gì thì cô ta sẽ thông báo sau. Cuối thư có ký tên TTT, vợ tương lai của anh.
Hắn trầm ngâm, không biết làm gì, tính lấy 5 đô đi mua cà phê uống, xem như được tổ cà phê đãi. Lên xe chạy về nhà mà cứ liên tưởng đến lá thư của một cô gái gửi cho người yêu trước khi Đà Lạt bị mất chủ đến nay gần 43 năm, vậy mà người mất cái ví vẫn giữ trong cái bóp, không giấy tờ, ngoài tờ giấy 5 đôla. Hắn cười thầm vì gặp trường hợp này, hắn chắc đã quăng thùng rác vì cô nàng chắc chắn đã lên xe hoa rồi. Nay chắc con đàn cháu đống.
Về nhà hắn đem câu chuyện cái ví lượm được mà không giấy tờ gì cả kể rồi đưa lá thư cho vợ đọc. Vợ hắn nói sao không liên lạc với hội thân hữu Đà Lạt ở vùng này, biết đâu họ biết tên cô TTT rồi lần ra khổ chủ.
Hắn lên mạng tra Gú Gồ về hội thân hữu Đà Lạt, tìm email của hội để liên lạc. Hắn imeo cho biết có lượm cái ví của một người từng sống tại Đàlạt, tại số 59/11 đường Hai Bà Trưng, tên TTT. Xong rồi hắn cũng quên tuốt luốt.
Một tháng sau thì hắn nhận được imeo trả lời của Hội thân hữu Đà Lạt, cho biết bà TTT, hiện nay đang ở nhà dưỡng lão, ở vùng Bolsa, ngay góc Brookhurst và McFadden, và cho địa chỉ và số phòng. Cuối tuần, hắn và vợ đi chợ xong thì ghé qua nhà dưỡng lão này để xem có tìm ra bà TTT hay không.
Hai vợ chồng hắn hồi hộp đi vào nhà dưỡng lão như đang phiêu lưu mạo hiểm tìm cái gì là lạ đồ cổ. Sau ghi tên ở bàn tiếp tân thì được biết bà TTT đang ngồi xem truyền hình ở lầu 2. Hai vợ chồng hắn run run lấy thang máy lên lầu 2 rồi hỏi một điều dưỡng viên ở đó thì được dẫn đến gặp bà TTT, đang xem truyền hình.
Bà TTT đưa mắt ngạc nhiên nhìn hai vợ chồng hắn rồi ú ớ vì đã lâu ít có ai vào thăm bà. Vợ hắn nói là hắn tình cờ lượm được cái ví có lá thư của bà TTT gửi cho ông LVT nên tìm hỏi để trao lại, may thay hội thân hữu Đà Lạt, cho địa chỉ của bà vì nghe nói trước kia bà cũng làm việc trong ban trị sự của hội. Bà T như xúc động, nhìn lại được những dòng chữ của mình.
Cả buổi hôm ấy, hai vợ chồng hắn, ngồi nghe bà T, kể về cuộc đời của bà. Bà, khi xưa là dân cư ở Đà Lạt, quen với một anh sinh viên học trường Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Tốt nghiệp xong thì ông B được đổi đi tác chiến ở vùng 1, hẹn khi nào ổn định xong thì sẽ xin gia đình bà T làm đám cưới. Đùng cái thì Cao Nguyên bị bỏ ngỏ, rồi Đà Lạt di tản nên gia đình cũng chạy theo rồi may có người quen cho lên chiếc tàu Trường Xuân, di tản ngày 30/4/75. Sang định cư tại Hoa Kỳ. Bà đi học lại rồi đi làm nhưng không lập gia đình vì vẫn chưa quên hình ảnh của ông B.
Cuộc đời có nhiều điều khó giải thích. Vợ chồng hắn ra về vì đến giờ ăn cơm của bà T, tự hứa sẽ đến thăm bà T khi rảnh, đưa đi chơi vì bà ta không có con, thân thích, mấy đứa cháu thì ở tiểu bang khác. Ra đến bàn tiếp tân để trao lại cái bảng tên khách viếng thì cô quản lý hỏi hai vợ chồng là thân nhân của bà T vì ít khi thấy ai đến thăm bà ta. Hắn kể là tìm được cái ví, có lá thư của bà nên tìm để xem ai mất bóp thì cơ duyên cho gặp bà ta nhưng người mất bóp thì bà ta đã không gặp lại từ 43 năm nay. Hắn đưa cái ví như phân trần.
Cô quản lý bổng trố mắt nhìn cái ví rồi nói đây là cái ví của ông LVT, ở nhà dưỡng lão Sunrise gần đây, vì tôi làm ở đó cuối tuần. Ông này hay mất ví lắm. Ông bà muốn thì ghé lại Sunrise ở đường Brookhurst, góc Heil, hỏi thì ra. Vợ chồng hắn trố mắt nhìn nhau rồi lật đật chạy lại nhà dưỡng lão Sunrise, hỏi ông LVT thì đúng như phép lạ. Ông T ở đây.
Ông T cảm ơn hai vợ chồng hắn rồi kể là ông ta đang đóng quân ở Đà Nẵng, rồi được lệnh di tản. Ông ta chạy về Sàigòn thì gia đình cho biết có lá thư của cô TTT. Sau đó ông ta bị đưa đi “cải tạo” ở ngoài Bắc 10 năm. Về Sàigòn, ông tìm cách, thăm dò tin tức, gia đình bà T nhưng vô vọng. Rồi được đi sang Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông đi làm rồi về hưu, không họ hàng thân thích nên dọn vào đây ở cho thoải mái, gần chợ Việt Nam, phố xá. Hôm qua, có ông bạn đến chở ông đi chợ Sàigòn và uống cà phê gần đó.
Vợ hắn hỏi ông B là có muốn gặp lại bà T không vì sáng nay đã đến gặp bà T. Ông B trố mắt nhìn hai vợ chồng hắn như bò đội nón, cà lăm cà liếc hỏi thật à. Thế là xin phép quản lý đưa ông B đi thăm đôi mắt người xưa. Cuộc đời quái lạ. Từ cái ví đến làm ông tơ bà Nguyệt.
Mấy tháng sau thì vợ chồng hắn được mời đi ăn cưới của đôi vợ chồng H.O. này, gặp nhau lại sau 43 năm xa cách, mà không ai chịu lập gia đình. Nếu hắn lấy tờ giấy 5 đô đi uống cà phê ở Starbuck thì chắc chả có chuyện quái quái như vậy, bị mang tiếng làm ông mai rồi phải đem cái đầu heo quay với Cholesterol về.
NguyenUSA
Nguồn: Internet
Views: 0